Di Sản Của Gia-cốp

Phần I – Bài Học Cho Mọi Tín Nhân

Gia-cốp (Ya’aqob) là tên của ông cố tôi. Tôi thường nói đùa rằng Gia-cốp nghĩa là “kẻ bịp bợm, lừa đảo (swindler)” nhưng thật sự không phải vậy. Gia-cốp có thể được dịch là “người chiếm chỗ (supplanter),” song đúng ra phải thực hiện với “gót chân.” Gia-cốp đã tóm lấy gót chân của anh mình.

Câu chuyện về Gia-cốp dạy chúng ta, là các tín nhân những điều rất quan trọng— Đức Chúa Trời hoàn thiện chúng ta như thế nào. Điều gì đó được dạy cho mỗi tín nhân trong câu chuyện, cuộc đời, và kinh nghiệm của Gia-cốp. Mặt khác, chúng ta sẽ xem xét thể nào Gia-cốp lại hiện thân cho Israel và dân Do Thái.

Bất cứ khi nào trong Kinh Thánh mà xác định rõ “Israel” hoặc “Gia-cốp,” đó là vì lý do: “Israel” có ngôn ngữ hợp nhất và Dân Ngoại có thể được ghép vào Israel. “Israel” đã vật lộn với Đức Chúa Trời và được thay đổi, còn “Gia-cốp” thì không. Dân Do Thái, vì không thay đổi nên họ được hiện thân bởi “Gia-cốp.” Cơn Đại Nạn (Great Tribulation) còn được gọi là “kỳ tai hại của Gia-cốp” (Giê-rê-mi 30:7. ND), và có ý nghĩa cho Israel và dân Do Thái. Chúng ta sẽ bắt đầu bằng việc nhìn vào khía cạnh đầu tiên về Gia-cốp, Gia-cốp dạy về bạn như thế nào, Gia-cốp dạy về tôi ra sao; cách cư xử của Gia-cốp khiến chúng ta có khuynh hướng cư xử thể nào, và cách mà Đức Chúa Trời đối phó với Gia-cốp để hoàn thiện ông dạy nhiều sự lạ lùng về cách Chúa sẽ hoàn thiện chúng ta.

Gia-cốp thường không có cuộc sống quá dễ dàng, ngay cả vào cuối đời mình. Cũng như Áp-ra-ham, và chắc chắn cùng mức độ với Y-sác, thậm chí cả vào lúc tuổi rất già của ông, Đức Chúa Trời thực hiện vài điều rất cơ bản trong cuộc đời và ở tính cách ông. Hãy quên đi tư tưởng nầy: “Tôi già, tôi đã nghỉ hưu, tôi có rồi”— chúng ta không “có rồi” cho

đến chừng nào chúng ta về nhà. Chúa làm nên những việc ở cuộc đời chúng ta đến khi chúng ta đến được nơi đó. Với cá nhân tôi, Phi-líp 1:6 là câu Kinh Thánh ưa thích nhất:

“Tôi tin chắc rằng Ðấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Ðức Chúa Jêsus Christ.”

Nhưng cách Chúa sẽ làm trong chúng ta là cách mà Ngài đã làm với Gia-cốp.


  1. “Sa Ngã” Đối Đầu “Thiên Nhiên”

    Đức Chúa Trời Áp-ra-ham rất đúng là Đức Chúa Trời của lời hứa, Đức Chúa Trời Y-sác là Đấng ban con trai của lời hứa, song Đức Chúa Trời Gia-cốp là Đấng hoàn thiện các con của lời hứa. Gia-cốp đại diện con người thiên nhiên (natural man), không phải đơn giản là con người sa ngã (fallen man), mà là con người thiên nhiên—có sự khác biệt.

    Khi được dựng nên A-đam chẳng có sự không hoàn hảo (imperfections), nhưng rồi ông không được hoàn hảo (not perfected). Sự không hoàn hảo đến vì Sa Ngã (Fall). Sau khi được tái sanh, bởi đức tin Đức Chúa Trời tống khứ con người sa ngã khỏi chúng ta. Bởi đức tin, người nam hoặc người nữ sa ngã bị đóng đinh vào thập tự giá Chúa Jesus và họ được tái sanh—họ trở nên tạo vật mới. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời liên hệ với con người thiên nhiên sau khi chúng ta được tái sanh. “Nếu ai muốn theo Ta, phải tự bỏ mình đi, mỗi ngày vác thập tự giá mình mà theo Ta” (Lu. 9:23). Con người sa ngã là một việc, con người thiên nhiên là một việc khác.

    Thật rất dễ dàng cho chúng ta vì Cơ Đốc nhân được thúc đẩy bởi các chủ tâm đẹp đẽ. Tôi biết những người đi đến công trường truyền giáo với ý định tốt lành. Họ nhìn thấy dân ngoại hư mất vì không có Phúc Âm, họ nhìn thấy kẻ nghèo khó dưới mức con người (sub-human), và là nhà giáo hoặc y khoa bác sĩ họ muốn giới thiệu Tin Lành cho những người đau khổ ở các nước đang phát triển. Động cơ của họ là đúng. Ca ngợi Đức Chúa Trời vì các động cơ tốt lành. Trước khi được cứu, họ chỉ muốn xây dựng sự nghiệp và kiếm tiền như bao kẻ khác, nhưng rồi họ đặt việc đó lên bàn thờ và nói rằng họ muốn đi đến công trường truyền giáo. Đây là những động cơ tốt lành. Là tín nhân, chúng ta có khuynh hướng thiên nhiên bị tác động bởi những động cơ tốt lành. Tuy nhiên, trong nền kinh tế của Đức Chúa Trời, những động cơ tân tiến và tốt lành đơn giản chỉ là bước thứ nhất—chúng ta phải được thúc đẩy đến với sứ mạng truyền giáo bởi Đức Thánh Linh. Gia-cốp là kẻ cố gắng để đạt được mục đích và phước hạnh Đức Chúa Trời bởi cảm nhận riêng mình. Động cơ của ông là đúng, nhưng ông hoàn thành với trạng huống tinh thần (mentality) “cứu cánh biện minh cho phương tiện (the ends justify the means).”

    Tôi đã chứng kiến rất nhiều tổ chức truyền giáo lớn và nhà thờ bắt đầu với động cơ tốt đẹp, nhưng cuối cùng rơi vào tình huống “cứu cánh biện minh cho phương tiện” và con người thiên nhiên tiếp quản. Tôi đã tham dự các buổi nhóm nơi những doanh nhân Cơ Đốc lớn muốn dâng hiến tài chánh cho truyền giáo, tôi đã tham dự buổi nhóm với các ban lãnh đạo truyền giáo, ban điều hành của những giáo phái, tất cả các buổi nhóm đó chỉ có hai phút cầu nguyện cho có lệ, và rồi bắt đầu việc đàm phán giống như các doanh nhân

    thế tục ở nhân gian. Động cơ họ thì đúng, nhưng trong cách suy nghĩ của họ cứu cánh— mục tiêu, luôn biện minh cho cách họ hành xử. Đó là con người thiên nhiên, là Gia-cốp. Gia-cốp ở trong họ, Gia-cốp ở trong tôi. Thật dễ dàng để tôi phê phán các bộ máy lớn điều hành truyền giáo nầy, ngoại trừ nếu tôi ở trong bộ máy điều hành truyền giáo, tôi có thể không có bất cứ điều gì tốt hơn. Thật rất dễ dàng để con người thiên nhiên tiếp quản. Khi chúng ta được tái sanh, Đức Chúa Trời xử lý người nam hay người nữ sa ngã, nhưng rồi Ngài bắt đầu liên hệ với người nam hoặc người nữ thiên nhiên.


  2. Kỳ Tai Hại Của Gia-cốp

    Hãy nhìn vào tất cả rắc rối mà Gia-cốp có. Mọi thử thách ông trải qua đều được Đức Chúa Trời thiết kế để đối phó với con người thiên nhiên của ông. Những loại thử thách chúng ta đi qua sẽ là thử thách mà Chúa thiết kế để đối phó với người nam hay người nữ thiên nhiên chúng ta.

    Điều chúng ta thích nói là: “Đây là cuộc tấn công tài chánh của kẻ thù.” Có ba loại rắc rối. Có loại rắc rối trực tiếp đến từ kẻ thù. Paul cho biết: “...quỷ Sa-tan đã ngăn trở chúng tôi” (I Tê. 2:18). Rồi có loại rắc rối Đức Chúa Trời chuẩn bị để cứu chúng ta khỏi đó, nếu không thì chúng ta sẽ mang vào mình. Chúng ta gặp đủ rắc rối ở thế gian nầy, thế nhưng chúng ta đi lạc khỏi ý muốn Chúa và tự gánh lấy rắc rối Ngài không muốn chúng ta có. Song có loại rắc rối mà Đức Chúa Trời lại muốn chúng ta có. Thậm chí trong Ê-sai, Sa-tan còn được gọi là tôi tớ Đức Chúa Trời. Nhưng ngay cả cho dù đó có thể là cuộc tấn công của kẻ thù, “mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Ðức Chúa Trời” (Rôm. 8:28). Hãy chỉ nghĩ về sự bắt bớ. Sự bắt bớ dọn sạch sự hâm hẩm và sợ hãi trong Hội Thánh— sự bắt bớ tống khứ các tín nhân hữu danh vô thực. Sự bắt bớ đến từ kẻ thù—tôi không cầu nguyện Đức Chúa Trời để bị bắt bớ.

    Tôi chứng kiến sự bắt bớ ở Israel và thật chẳng tốt đẹp gì. Chúng tôi sống tại Israel vào thập niên 80 khi Likud nắm quyền lực với đảng tôn giáo, và đảng tôn giáo đó đã làm những việc khủng khiếp.* Có việc đốt cháy các nhà thờ Đấng Mê-si. Tôi đã nhìn thấy sự bắt bớ, dù không tệ hại như những gì xảy ra ở các quốc gia Hồi giáo. Dĩ nhiên đó là kẻ thù, nhưng Đức Chúa Trời có mục đích. Ngài có mục đích ở Israel. Khi tôi đầu tiên di dân đến Israel vào thập niên 70, các tín nhân rất sợ làm chứng ở nơi công cộng. Nhưng sau khi các chỗ nhóm của họ bắt đầu bị đốt cháy ở Giê-ru-sa-lem, Ti-bê-ri-át, Ách-đốt, và những nơi khác, họ nói: “Sự khác biệt là gì? Tại sao chúng ta lại phải sợ?”

    *Đảng Likud (Phong Trào Tự Do Quốc Gia) là đảng chính trị cánh hữu ở Israel được Menachem Begin thành lập năm 1973. Đảng Likud là đảng cánh hữu đầu tiên chiến thắng trong cuộc tuyển cử 1977, và nắm quyền lực gần suốt thập niên 80, cho đến khi thất bại trong cuộc tuyển cử Knesset năm 1992. ND.

    Là tín nhân, chúng ta có các thử thách được Đức Chúa Trời thiết kể để đối phó với con người thiên nhiên.


  3. Một Cuộc Đời Được Diễn Lại

    Cuộc đời Gia-cốp diễn lại rất nhiều về cuộc đời của cha ông mình. Gia-cốp đến để tìm nàng dâu trong vòng bà con, và ông thích Ra-chên. Nhưng chỉ sau khi ông biết yêu

    Lê-a cũng nhiều như Ra-chên, ông mới được Ra-chên. Ban đầu Lê-a có tất cả các con, song cuối cùng Ra-chên lại có tất cả các con. Tất cả những người nam vĩ đại trong Thánh Kinh đều biểu hiện trước về Đấng Mê-si theo cách nào đó. Ban đầu Hội Thánh Dân Ngoại có kết quả, nhưng cuối cùng kết quả nhất lại thuộc về Ra-chên—người Do Thái. Dân Do Thái là một quốc gia bắt đầu với Gia-cốp: Mười hai con trai của Gia-cốp—các chi phái và tổ phụ của Israel. Ông diễn lại những kinh nghiệm, và ngay cả vài thử thách của cha ông mình.

    Là tín nhân, khi trải qua các thử thách ở đời mình, chúng ta không nghĩ về nó, song những tín nhân khác trước chúng ta—theo ý nghĩa thuộc linh, là cha ông chúng ta—đã trải qua cùng các loại thử thách đó. Chính Hội Thánh phải học những bài học tương tự lập đi lập lại. Hãy chỉ cần nhìn vào lịch sử Hội Thánh. Nó bắt đầu thỏa hiệp, xa khỏi Kinh Thánh, và tái phạm tội, Chúa đưa ra điều gì đó mới, thật tốt khoảng thời gian, rồi lại đi theo tiến trình tương tự lần nữa, cũng giống như các vị vua trong Sử Ký. Lịch sử Hội Thánh trải qua hiện tượng cùng loại như trong Các Quan Xét, Các Vua, và Sử Ký với Israel. Lịch sử Hội Thánh cho biết việc tương tự. Gia-cốp diễn lại kinh nghiệm của cha ông mình. Gia-cốp đại diện cho con người thiên nhiên.

    …và bạn đã quên sự khích lệ được gởi đến cho bạn như những người con:

    “Hỡi con, chớ dể ngươi sự sửa phạt của Chúa, và khi Chúa trách, chớ ngã lòng; vì Chúa sửa phạt kẻ Ngài yêu, hễ ai Ngài nhận làm con thì cho roi cho vọt” (Hêb. 12:5-6).

    (Rõ ràng ông không tin những lời dối trá của thần học về sự thịnh vượng).

    “Ví bằng anh em chịu sửa phạt, ấy là Ðức Chúa Trời đãi anh em như con, vì có người nào là con mà cha không sửa phạt? Nhưng nếu anh em được khỏi sự sửa phạt mà ai nấy cũng phải chịu, thì anh em là con ngoại tình, chớ không phải con thật. Cha về phần xác sửa phạt, mà chúng ta còn kính sợ thay, huống chi Cha về phần hồn, chúng ta há chẳng càng nên vâng phục lắm để được sự sống sao? Vả, cha về phần xác theo ý mình mà sửa phạt chúng ta tạm thời, nhưng Ðức Chúa Trời vì ích cho chúng ta mà sửa phạt, để khiến chúng ta được dự phần trong sự thánh khiết Ngài. Thật các sự sửa phạt lúc đầu coi như một cớ buồn bã, chớ không phải sự vui mừng; nhưng về sau sanh ra bông trái công bình và bình an cho những kẻ đã chịu luyện tập như vậy” (Hêb. 12:7-11).

    Khi chúng ta trải qua thử thách thật rất khổ sở, nhưng khi ra khỏi đó, nhìn lại chúng ta thấy rằng đó là bởi tay Đức Chúa Trời. Chúng ta có thể nói mình không thể trải qua đó lần nữa, nhưng chúng ta vui mừng rằng chúng ta đã đi qua lần đầu tiên, ngay cả cho dù trong lúc đi qua, chúng ta thật sự không muốn. Gia-cốp là minh họa hoàn hảo cho tiến trình đó. Y-sác thì tiêu biểu cho sự sáng tạo mới—ông được đặt trên bàn thờ; Gia-cốp là con của sự sáng tạo mới.


  4. Chúng ta hãy xem xét sự gì xảy ra cho con người thiên nhiên nầy, và điều chi xảy đến cho con người sa ngã kia, khi câu chuyện của Gia-cốp tiếp tục.

    Đức Giê-hô-va phán với nàng (Rê-be-ca) rằng:

    “Hai nước hiện ở trong bụng ngươi, và hai thứ dân sẽ do lòng ngươi mà ra; dân nầy mạnh hơn dân kia, và đứa lớn phải phục đứa nhỏ. Ðến ngày nàng phải sanh nở, nầy hai đứa sanh đôi trong bụng nàng ra. Ðứa ra trước đỏ hồng, lông cùng mình như một áo tơi lông; đặt tên là Ê-sau. Kế em nó lại ra sau, tay nắm lấy gót Ê-sau; nên đặt tên là Gia- cốp. Khi sanh hai đứa con nầy thì Y-sác đã được sáu mươi tuổi” (Sáng 25:23-26).

    Tính cách người Do Thái là quốc gia và tính cách người Ả-rập như một nước, diễn lại hai tính cách của Gia-cốp và Ê-sau. Ê-sau khinh quyền trưởng nam (Sáng 25:34). Bởi sự nổi lên của Hồi giáo, cho đến ngày nay các dân Ả-rập cũng khinh quyền trưởng nam của họ. Mặt khác, không có gì nghi ngờ rằng người Do Thái đã ngược đãi các dân Ả-rập, dù hầu như không tệ hại như những gì dân Ả-rập đối xử với nhau, song có sự bất công. Tính cách của dân Do Thái và Ả-rập ở hai anh em nầy được nhân cách hóa trong các tổ phụ. Ngay từ lúc ban đầu, tay Gia-cốp nắm lấy gót anh mình.

    Chúng ta hãy nhìn xa hơn khi đến thời điểm chúc phước. Một số người cho rằng lúc tay của Y-sác đặt trên các con trai mình để chúc phước thì họ có thể đã bảy mươi tuổi rồi. Trong câu chuyện nầy, người mẹ đã bày mưu tính kế cho ông.

    “Mẹ đáp rằng: Con ơi! xin sự rủa sả đó để cho mẹ chịu; hãy cứ nghe lời mẹ, ra bắt hai dê con. Vậy, Gia-cốp đi bắt hai dê con, đem lại cho mẹ, làm món ngon, tùy theo cha sở thích. Ðoạn Rê-be-ca lấy quần áo tốt nhứt của Ê-sau, con trưởng nam, sẵn để trong nhà, mà mặc vào cho Gia-cốp, con út mình; rồi người lấy da dê con bao hai tay và cổ, vì tay và cổ Gia-cốp không có lông. Rê-be-ca bèn để món ngon và bánh của mình đã dọn vào tay con út mình. Gia-cốp bưng đến cha mình và nói rằng: Thưa cha! Y-sác đáp: Có cha đây; con là đứa nào đó? Gia-cốp thưa: Tôi là Ê-sau, con trưởng nam của cha; con đã làm theo lời cha dặn biểu; xin cha dậy, ngồi ăn lấy thịt săn của con, đặng linh hồn cha sẽ chúc phước cho con. Y-sác hỏi rằng: Sao con đi săn được mau thế? Thưa rằng: Ấy nhờ Giê-hô-va Ðức Chúa Trời của cha xui tôi gặp mau vậy. Y-sác nói cùng Gia-cốp rằng: Hỡi con! hãy lại gần đặng cha rờ thử xem có phải là Ê-sau, con của cha chăng? Gia-cốp bèn lại gần Y-sác; người rờ và nói rằng: Tiếng nói thì của Gia-cốp, còn hai tay lại của Ê-sau. Người chẳng nhận biết đặng vì hai tay cũng có lông như của anh, là Ê- sau. Vậy Y-sác chúc phước cho” (Sáng 27:13-23).

    Về một mặt Ê-sau nhận được những gì người đáng phải nhận vì khinh quyền trưởng nam; mặt khác hãy nhìn xem Gia-cốp. Lời hứa của Đức Chúa Trời có từ lúc mang thai rằng đứa nhỏ sẽ ưu tú (preeminent) hơn đứa lớn—không phải “tốt hơn” hoặc không phải “tuyệt vời hơn,” nhưng mục đích cứu rỗi của Đức Chúa Trời sẽ đi qua Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. (Dĩ nhiên, Hồi giáo dạy sự cứu rỗi đi qua Ibrahim, tức Áp-ra-ham, Ích-ma-ên và Ê-sau). Gia-cốp cố gắng hoàn thành mục đích Đức Chúa Trời bằng con người quỷ quyệt của ông, và điều đó giống dân Do Thái rất nhiều. Họ biết họ có kinh Torah và mục đích giao ước, nhưng luôn làm theo cách nghĩ của mình.

    Hãy ghi nhớ rằng đó là mẹ ông bày mưu tính kế cho việc nầy. Chúng ta có bản chất sa ngã từ trong lòng mẹ, nhưng chúng ta cũng nhận nó từ môi trường rồi làm vững mạnh thêm. Nếu cha mẹ có vấn đề về giận dữ, thì nó sẽ phản ảnh trong con họ. Chúng ta có bản chất mình từ trong bào thai, nhưng nó vững mạnh thêm bởi môi trường thơ ấu chúng ta.

    Lấy tôi làm ví dụ, rất nhiều lần tôi thấy mình chấp nhận các đặc điểm tiêu cực của mình; là cha mẹ tôi nói với các con tôi một điều nhưng tôi lại làm khác. Tất cả chúng ta đều như vậy ở mức độ nào đó, một số người còn tệ hại hơn kẻ khác. Đứa trẻ nhận bản chất sa ngã từ cha mẹ và bản chất đó mạnh thêm ở môi trường gia đình. Khi chúng ta được cứu, Đức Chúa Trời bắt đầu giải quyết bản chất sa ngã đó, và Chúa xử lý nó theo các dòng dõi tương tự như Ngài đã làm trong Gia-cốp.


  5. Hoàn Thành Mục Đích Của Đức Chúa Trời

    Một lần nữa, tôi sẽ chỉ ra rằng Đức Chúa Trời cũng ban phước cho Ê-sau. Tôi không ám chỉ Chúa yêu thương người Do Thái hơn các dân Ả-rập. Tôi chỉ đang nói đến việc tuyển chọn của Đức Chúa Trời như công cụ cứu rỗi của Ngài—đó là tất cả.

    “Ta không thể tự mình làm nổi việc gì; Ta xét đoán theo điều Ta nghe, và sự xét đoán Ta là công bình, vì Ta chẳng tìm ý muốn của Ta, nhưng tìm ý muốn của Ðấng đã sai Ta” (Giăng 5:30).

    Chúa Jesus nói Ngài không làm việc gì theo ý riêng Ngài. Chúa Jesus có thể hóa bánh nuôi năm ngàn người bởi Ngài là Đức Chúa Trời. Chúa Jesus có thể chữa lành bệnh cho đoàn dân vì Ngài là Đức Chúa Trời, và nhiều Cơ Đốc nhân suy nghĩ sai lầm rằng Chúa Jesus làm những việc đó vì Ngài là Đức Chúa Trời, nhưng không phải như vậy— Chúa Jesus làm những việc đó bởi quyền năng Đức Thánh Linh. Ngài mang lấy hình tôi tớ, chẳng coi sự bình đẳng mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ (Phi-líp 2:6). Chúa tự bỏ đi đặc quyền của thần tánh Ngài, và không bao giờ sử dụng quyền năng thiên thượng. Nếu dùng quyền năng thiên thượng, Chúa sẽ hành động trong xác thịt. Động cơ thì đúng, nhưng hành động Ngài sẽ không được đề xướng bởi Đức Thánh Linh. Trong Lu-ca 5:17, “quyền phép (dunamis) Chúa ở trong Ngài để chữa lành các bịnh.”

    Chúng ta cầu nguyện cho ai đó ra khỏi xe lăn (nếu chúng ta có ân tứ chữa bệnh), tại sao một số người khỏi, còn số khác thì không? Chúng ta có thể luôn cầu nguyện, xức dầu cho người bệnh, và xin Đức Chúa Trời chữa lành họ, nhưng nếu chúng ta phải nói: “Nhân danh Chúa Jesus, hãy ra khỏi chiếc xe lăn đó,” giống như dunamis—“quyền phép” đó dành cho Chúa Jesus trong Lu-ca 5:17 tốt hơn cho chúng ta. Đức Chúa Cha, bởi quyền năng của Đức Thánh Linh, phải đề xướng nó; nếu không chúng ta đang hành động trong xác thịt. Chúng ta có thể cầu nguyện cho người đó, nhưng khi chúng ta ra lệnh cho họ phải đứng lên và ra khỏi xe lăn, ở hoàn cảnh đó chúng ta đang hành động trong xác thịt. Chúng ta sẽ viện ra mọi loại lý do để lên án người ta: “Bạn chẳng có đức tin,” “Có tội lỗi trong đời sống bạn.” Có thể là đúng, nhưng thường đó là Cơ Đốc nhân hành động trong xác thịt và lên án người khác. Chúa Jesus không sử dụng quyền năng thiên thượng. Chúa có thể có, song chẳng dùng. “Ta không thể tự mình làm nổi việc gì,” Ngài phán.

    Israel như cánh đồng truyền giáo là một ví dụ tốt. Có những tín nhân đến từ mọi nơi trên thế giới, họ yêu Israel, thương mến dân Do Thái, và có ý tưởng lãng mạn và hấp dẫn bởi vì họ thích ý tưởng về lời tiên tri được ứng nghiệm, do vậy họ đi đến đó với kỳ vọng cao. Nhưng tôi sẽ tập họp phần lớn những người nầy từ sáu tháng cuối đến một năm. Một số họ đi đến đó yêu thương người Do Thái (Philo-Semites) và trở về chống lại dân Do Thái (Anti-Semites). Xã hội đó sẽ thật sự thử nghiệm tình yêu bạn dành cho người Do Thái. Sự ngạo mạn của dân chúng có thể thật sự đi đến chỗ bạn.

    Có các lý do về xã hội học cho điều đó: Người Do Thái kiêu ngạo hơn bất kỳ dân tộc nào khác, họ ra đời với các giá trị xã hội được xem như phương cách tốt để là người tư sản trưởng giả. Người Do Thái luôn là thành viên tầng lớp trung lưu và doanh nhân chuyên nghiệp, họ là dân của Đất Hứa. Vì vậy người Do Thái lập ra kibbutz* và các cộng đồng xã hội tương tự cố gắng để đối nghịch với dân Do Thái Diaspora.** Họ ném những phương cách tốt ra ngoài cửa sổ và giúp tạo nên khuôn mẫu xã hội, và đó là lý do họ rất kiêu ngạo (mặc dù sau vẻ kiêu ngạo đó bạn có thể tìm thấy một người rất ấm áp, nồng nhiệt). Nếu lang thang ở đó vài năm bạn sẽ bắt đầu thấy, nhưng nếu chỉ đi đến đó một năm, những gì bạn chứng kiến sẽ khiến bạn chán ghét. Tôi không muốn nói chỉ Dân Ngoại, mà có ý nói thậm chí người Do Thái khác đến đó cũng không thể chịu đựng được.

    * Kibbutz (và Moshav) là cộng đồng nông thôn đặc sắc và thành công nhất trên thế giới phát triển ở trình độ cao tại Israel. Bất chấp điều kiện địa lý không thích hợp cho nông nghiệp với hơn nửa diện tích đất là sa mạc, khí hậu khắc nghiệt và thiếu nước hoàn toàn, song Kibbutz và Moshav đã giúp Israel là nhà xuất khẩu lớn của thế giới về nông sản và đứng hàng đầu về công nghệ trong nông nghiệp. ND.

    **Diaspora bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp có nghĩa “rải rác, phân tán.” Diaspora là sự di trú của nhóm người có cùng nguồn gốc dân tộc, ra khỏi vùng đất định cư của tổ tiên. Ngoài ra, Diaspora còn ám chỉ đến cảnh tha hương của dân Do Thái sống ngoài vùng đất tổ tiên họ. Ở cách nói hiện đại, Diaspora đề cập đến sự phân tán của những người Do Thái khắp Châu Âu đã trở về quê hương của họ vào năm 1948. ND.

    Khi chúng ta cố gắng để hoàn thành mục đích của Đức Chúa Trời—ngay cả nếu đó thật là mục đích Ngài, ngay cả nếu đó là sự kêu gọi của Chúa—trong sức riêng con người chúng ta sẽ không làm được. Đức Chúa Trời ban cho chúng ta sức mạnh con người, song như chúng ta sẽ thấy, sức mạnh con người chúng ta không thể được thừa hưởng cho đến khi Chúa xử lý “con người thiên nhiên” trong đời sống chúng ta.

    “Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh. Ai cứ ở trong Ta và Ta trong họ thì sinh ra lắm trái; vì ngoài Ta, các ngươi chẳng làm chi được” (Giăng 15:5).

    Chỉ bằng việc ở trong Chúa Jesus mà chúng ta có thể hoàn thành mục đích thật của Đức Chúa Trời, song con người thiên nhiên thì giống như Gia-cốp: Ông luôn muốn đạt được bằng tài trí, với lòng nhiệt thành và ý tưởng riêng của mình. Hãy ca ngợi Chúa vì động cơ tốt lành, nhưng lại không đủ. Chỉ ở trong Chúa bạn mới có thể làm được. Không chỉ vậy, nhưng rất thường khi Cơ Đốc nhân không thể nói ra sự khác nhau giữa con người thiên nhiên và những gì Đức Chúa Trời đề xướng. Họ không hiểu sự khác nhau giữa điều Đức Thánh Linh hướng dẫn họ làm và những gì họ nghĩ là tốt.

    Hãy nghĩ đến những lần trong Sách Công Vụ, nơi Kinh Thánh cho biết họ ra ngoài làm chứng và rao giảng Tin Lành, nhưng Thánh Linh Đức Chúa Jesus không cho phép họ

    giảng nơi đó (Công 16:7). Nếu ai đó cố đi đến cánh đồng truyền giáo mà Đức Chúa Trời không sai phái, họ sẽ không đến được bất kỳ nơi nào, và Israel là một ví dụ tuyệt vời. Rất nhiều người phải quay về.

    Tôi biết các nhà truyền giáo từng đến với những kẻ săn đầu người ở New Guinea suốt 15-16 năm, nhưng lại phải rời khỏi Israel như người tan vỡ. Tôi biết một quý bà Do Thái—người sống sót cùng em trai và em gái nhỏ sau thảm kịch tiêu diệt người Do Thái của Đức Quốc Xã (Holocaust),* người được cứu ở Thụy Sĩ và mất 20 năm hoặc hơn nữa là nhà truyền giáo đến bộ tộc Bantu ở Angola. Bà có lẽ là người duy nhất biết nói tiếng Yiddish và Swahili (hoặc bất kỳ ngôn ngữ nào mà họ nói nơi đó). Là tín nhân xinh đẹp, bà cho rằng thà bà trở lại với thổ dân da đen ở Phi Châu còn hơn là với dân tộc Do Thái bà ở Israel, bởi vì họ rất khó khăn.

    *Holocaust, từ tiếng Hy Lạp holokaustos: “holos” là toàn bộ và “kaustos” là thiêu đốt, tiếng Hê-bơ- rơ là “HaShoah” có nghĩa “thảm họa lớn” là thảm họa diệt chủng do Đức Quốc Xã cùng bè phái tiến hành dẫn đến cái chết khoảng 6 triệu người Do Thái, cùng 5 triệu người không phải Do Thái, đưa tổng số nạn nhân thiệt mạng lên đến khoảng 11 triệu người. ND.

    Hãy ca ngợi Đức Chúa Trời về những điều thay đổi ở Israel—Chúa rõ ràng đang làm việc gì đó. Nhưng nếu ai đó đi đến cánh đồng truyền giáo mà Đức Chúa Trời không kêu gọi, bất kể đó là gì, họ sẽ không sống sót. Chúng ta phải ở trong Ngài. Giống như Gia-cốp, chúng ta có thể cố gắng nhiều để làm với sức riêng mình.


  6. Hình Thể Học (Typology) Về Đá Quý Và Kim Loại Quý

    “Nếu có kẻ lấy vàng, bạc, bửu thạch, gỗ, cỏ khô, rơm rạ mà xây trên nền ấy, thì công việc của mỗi người sẽ bày tỏ ra. Ngày đến sẽ tỏ tường công việc đó; nó sẽ trình ra trong lửa, và công việc của mỗi người đáng giá nào, lửa sẽ chỉ ra. Ví bằng công việc của ai xây trên nền được còn lại, thì thợ đó sẽ lãnh phần thưởng mình. Nếu công việc họ bị thiêu hủy, thì mất phần thưởng. Còn về phần người đó, sẽ được cứu, song dường như qua lửa vậy” (I Côr. 3:12-15).

    Ví dụ như chúng ta có các tổ chức ở Israel, với động cơ đúng và thậm chí còn làm những điều phải lẽ, song theo ý tưởng của họ chứ không phải của Đức Chúa Trời. Vì vậy họ ký thỏa thuận với chính phủ Israel và nói sẽ không truyền giảng Tin Lành cho người Do Thái di dân từ Nga, sẽ không cho Kinh Thánh Tân Ước, mà chỉ chở người đến Israel thôi. (Họ làm thế và bước vào cuộc chiến lớn với dân Do Thái vì Chúa Jesus và những người khác). Chiếc thuyền với mười người Do Thái trên đó, chẳng có ai khác, như vậy họ bắt đầu chở du khách lấy tiền. Mặc dù họ đã nhận được hàng triệu đóng góp để làm việc nầy, Đức Chúa Trời đã không ban phước bởi vì đó là ý tưởng con người. Đây là những người tốt, yêu mến Chúa, và có ý định thiện lành, nhưng tại sao Chúa không ban phước? Bởi họ đang cố gắng làm những việc với ý tưởng và sức riêng của mình. Sớm hay muộn rồi họ sẽ bị thử nghiệm với lửa (I Côr. 3:13), và duy việc Chúa chỉ định sẽ tồn tại với lửa. Là tín nhân, nhiều điều chúng ta làm trong đời sống với động cơ đúng, và ngay cả có thể ở mức độ Chúa sẽ dùng, song Ngài không ban phước, cũng chẳng khen thưởng gì hết.

    Đó nói về những vật dụng sẽ bị lửa thiêu hủy. Bằng cách nào sự sa ngã con người lại chen vào giữa Phúc Âm Chúa Jesus. Đức Chúa Trời biết trước những gì xảy ra, nhưng chúng ta không ra đời để được tái sanh, mà sanh ra để đi đến thiên đàng làm con Chúa— bạn của Ngài. Chúng ta được dựng nên để yêu thương, để phục vụ, để thờ phượng Chúa, và để chia sẻ các phước hạnh Ngài. Sự Sa Ngã bằng cách nào đó lại chen vào giữa. Theo ý nghĩa nào đó, tiền đề của Phúc Âm là phải phục hồi những sự đã mất bởi Sa Ngã.

    Vàng xứ nầy rất cao (rất tốt); đó lại có nhũ hương và bích ngọc (onyx, mã não)” (Sáng 2:12).

    Đây là trước khi Sa Ngã—vàng và đá quý.

    Trong I Cô-rinh-tô 3:12 chúng ta có bạc. Chúa Jesus bị phản bội vì bạc, Giô-sép bị phản bội vì bạc, “Ta sẽ..., ban bạc thay cho sắt” (Ês. 60:17). Bạc luôn đại diện cho giá của sự cứu rỗi ở một số cách. Trong hình thể học về Đền Thờ, từ Nơi Chí Thánh càng đi xa giá trị của các khoáng vật tương ứng giảm dần. Bạc thì ở giữa. Bắt đầu với đồng, rồi bạc, nhưng ở Nơi Chí Thánh là vàng. Càng đến gần Đức Chúa Trời, giá trị khoáng vật càng tăng. Vào thời ấy họ chưa có platinum (bạch kim, có lẽ họ chưa biết về kim loại cực quý nầy—thậm chí ngành luyện kim còn chưa biết cách sản xuất nó), vì vậy vàng là vật quý giá nhất mà họ biết ở thời kỳ Kinh Thánh. Hãy xem những gì xảy ra sau sự cứu rỗi.

    “Những nền tường thành thì trang sức đủ thứ ngọc. Nền thứ nhứt, bằng bích ngọc; nền thứ nhì, bằng đá lam bửu; nền thứ ba, bằng lục mã não; nền thứ tư, bằng đá lục cẩm; nền thứ năm, bằng hồng mã não; nền thứ sáu, bằng đá hoàng ngọc; nền thứ bảy bằng ngọc hoàng bích, nền thứ tám, bằng ngọc thủy thương; nền thứ chín, bằng ngọc hồng bích; nền thứ mười, bằng ngọc phỉ túy; nền thứ mười một, bằng đá hồng bửu; nền thứ mười hai, bằng đá tử bửu. Mười hai cửa thì làm bằng mười hai hột châu; mỗi cửa bằng một hột châu nguyên khối làm thành. Ðường trong thành làm bằng vàng ròng, giống như thủy tinh trong suốt” (Khải Huyền 21:19-21).

    Ðường trong thành làm bằng vàng ròng.

    Trước khi Sa Ngã chúng ta có các loại đá quý được khảm trong vàng, sau khi tiến trình cứu cuộc hoàn tất chúng ta có các loại đá quý được khảm trong vàng. Không có bạc, ví như bạc chỉ có giá trị trần tục. Bạc sẽ bị oxýt hóa, còn vàng thì không. Nhưng bạc ít nhất cũng có một số giá trị thế gian, còn gỗ, cỏ khô, rơm rạ thì không có giá trị lâu bền.

    Trong bộ áo thánh của Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm có bảng đeo ngực như sự công bình và ê-phót với hai đai vai có đá quý khắc tên mười hai chi phái Israel, lần lượt tương ứng với các loại đá quý trong Khải Huyền. Thầy Tế Lễ Thượng Phẩm phải mang gánh nặng của Israel trên ngực và vai mình. Ông không thể cởi ê-phót ra. Khi cầu nguyện cho ai đó, chúng ta cầu thay cho họ—chúng ta mang gánh nặng trong lòng và trên vai mình. Chúng ta không được bỏ đi. Chúng ta biết ở thư Hê-bơ-rơ, Thầy Tế Lễ Cả Thượng Phẩm là Đức Chúa Jesus, Đấng mang gánh nặng cho Israel trong tấm lòng và trên vai Ngài— Ngài không bỏ đi. Nhưng đó là các loại đá quý được khảm trong vàng.

    Phi-e-rơ nói điều tương tự: “Sự thử thách đức tin anh em quý hơn vàng hay hư nát, dầu đã bị thử lửa” (I Phi. 1:7). Kim cương được hình thành ra sao? Áp lực và lửa (áp suất và nhiệt độ). Đức Chúa Trời sẽ tạo nên bạn và tôi thành đá quý được khảm trong vàng (gold) như thế nào—tin kính, ngoan đạo (godly)? Áp lực và lửa.*

    *Có lẽ ở đây tác giả chơi chữ với hai từ hơi giống nhau là gold (vàng) và godly (tin kính, ngoan đạo).

    Vàng thì quý giá, song đời sống Cơ Đốc tin kính, ngoan đạo còn quý giá hơn. ND.

    Ai muốn áp lực? Ai muốn lửa? Không phải tôi! Nhưng khi có kim cương đó, chúng ta chắc chắn vui mừng. Lúc đến thiên đàng, chúng ta sẽ không hối tiếc bởi thử thách đơn sơ của Đức Chúa Trời, vì chúng ta sẽ là đá quý được khảm trong vàng; các thứ khác sẽ bị thiêu hủy. Dĩ nhiên, người chưa được cứu thậm chí không được tính vào phương trình.

    Trái Thánh Linh trong thư Ga-la-ti là bản chất của Đức Chúa Trời, và trong ngôn ngữ Hy Lạp cho ý tưởng rằng trái đầu tiên của tất cả là yêu thương. Trái Thánh Linh đầu tiên là tình yêu thương—tất cả những trái khác đều xuất phát từ tình yêu thương. Chúng ta thường nói Trái Thánh Linh ấy là lòng yêu thương, sự vui mừng, bình an, nhịn nhục, nhân từ, hiền lành, trung tín, mềm mại, tiết độ (Gal. 5:22), nhưng không, Trái Thánh Linh là tình yêu thương; những trái khác là kết quả của tình yêu thương, làm hoàn hảo tình yêu thương của Đấng Christ trong chúng ta.


  7. Không Phải Tội Lỗi, Mà Là Tội Nhân

    Phương cách mà Đức Chúa Trời tống khứ tội lỗi trước tiên là bằng việc tống khứ tội nhân. Chúa không cất đi vấn đề giận dữ của bạn hay của tôi, hoặc cơn phẩn nộ của bạn hay của tôi, Ngài cất đi bạn; Ngài cất đi tôi. Chúa Jesus không bao giờ nói lúc trên cây thập tự, “Ta đang chết cho tội lỗi các ngươi,” đầy đủ rồi dừng. Ngài phán, “Ta đang chết cho tội lỗi các ngươi, vậy tốt hơn các ngươi hãy đứng dậy nơi đây với Ta.” Đó là phương cách của Ngài. Đức Chúa Trời không tống khứ tội lỗi, Ngài tống khứ tội nhân.

    Vấn đề đó là con người thiên nhiên lại là tội nhân. Ma quỷ không cần phải làm chúng ta mất bình tĩnh, hay ham muốn ai đó không phải vợ, chồng chúng ta, hoặc khiến chúng ta làm bất kỳ việc gì—tất cả những gì ma quỷ phải làm là khiến chúng ta trở thành con người (người nam, người nữ) thiên nhiên, rồi dù thế nào đi nữa chúng ta sẽ phạm tội. Phần còn lại thì dễ dàng. Khi ma quỷ khiến chúng ta trở thành con người thiên nhiên, chúng ta là kẻ bị ngã (pushover). Đức Chúa Trời phải tống khứ con người thiên nhiên.

    Tôi đã chứng kiến việc nầy. Khi Cơ Đốc nhân phục vụ Chúa trong con người thiên nhiên như Gia-cốp, điều gì xảy ra? Họ thật sự phạm tội và dối trá. Tôi có thể trình ra cho bạn các bức thư thực tế chứng mình lãnh đạo các giáo phái Cơ Đốc lớn ở đất nước nầy đã dối trá về những việc họ có thể bị kiện ra tòa. Con người thiên nhiên vốn là sa ngã.

    Ma quỷ không ra ngoài để xui giục chúng ta phạm tội—đó không phải là mục tiêu của nó bởi dù thế nào đi nữa chúng ta sẽ phạm tội. Nó sẽ xui giục chúng ta đi trong xác thịt thay vì Thánh Linh, và cách đầu tiên ma quỷ sẽ cố làm là khiến chúng ta trở nên Cơ Đốc nhân theo cảm xúc riêng của mình.

    Trong Kinh Thánh Tân Ước chúng ta có người giống Gia-cốp rất nhiều, và tên người là Phi-e-rơ. Khi gã đó đến bắt Chúa Jesus, Phi-e-rơ rút gươm mình ra và chém đứt tai hắn. Phi-e-rơ rút gươm mình ra: “Ngài ở đâu? Hãy để mặc tôi với Ngài!”—cũng như Gia-cốp. Nhưng khi thử thách thật sự đến? “Trước khi gà gáy hai lượt, ngươi sẽ chối ta ba lần” (Mác 14:29-31).

    Chúng ta có thể chắc chắn rằng cuộc khủng hoảng Đức Chúa Trời cho phép là cuộc khủng hoảng mà chúng ta đối mặt như con người thiên nhiên và chúng ta sẽ thất bại thảm hại. Mãi đến khi Đức Chúa Trời làm việc trong đời sống Phi-e-rơ, chúng ta thấy Phi-e-rơ dạn dĩ đứng lên giảng vào ngày lễ Ngũ Tuần. Không lâu trước đó chỉ vài tuần, “tôi không biết người nầy” và đi theo xa xa. Nhưng vào ngày lễ Ngũ Tuần với Đức Thánh Linh, ông chẳng còn sợ các đám đông nữa. Điều gì đó đã xảy ra. Cũng là cùng một người, khả năng thiên nhiên tương tự, song khả năng thiên nhiên đã đến với (bị đóng đinh trên) thập tự giá. Gia-cốp giống như thế.


  8. Khả Năng Thiên Nhiên Và Lời Kêu Gọi Của Đức Chúa Trời

    Thật tốt đẹp để làm nhà giáo; cũng rất tuyệt vời khi là bác sĩ y khoa. Có những quốc gia không bao giờ cho phép các nhà truyền giáo, nhưng sẽ thu nhận nhà giáo hoặc bác sĩ y khoa. Đó là cách mang Tin Lành vào các đất nước nào đó. Thật tốt để là nhạc sĩ, nhưng để là nhạc sĩ chơi giỏi “âm nhạc Cơ Đốc” là một việc—để lãnh đạo thờ phượng dưới sự xức dầu của Đức Thánh Linh lại là việc khác. Để là bác sĩ y khoa tốt là một việc, nhưng để làm nhà truyền giáo y tế được Đức Thánh Linh xức dầu lại là việc khác. Người nam và người nữ thiên nhiên phải đi đến với (bị đóng đinh trên) thập tự giá—không chỉ tội nhân, không chỉ gã buôn bán ma túy, không chỉ kẻ gian dâm, mà toàn bộ con người phải đi đến thập tự giá, và sau đó Đức Chúa Trời trong quyền năng sự phục sinh có thể sử dụng khả năng con người, nghề nghiệp, giáo dục của họ.

    Gia-cốp có tất cả những điều nầy. Ông là người thông minh, lanh lợi. Ông thông minh và lanh lợi đến nỗi kết quả ngược lại sự mong đợi, người Do Thái là như vậy. Bằng cách nào đó người Do Thái biết rằng họ bị buộc phải khéo léo và thông minh, đó là lý do tại sao họ kết thúc trong các vụ thảm sát và tòa án dị giáo*—nó đốt lửa chặn trên họ, và sẽ đốt lửa chặn trên chúng ta. Khi chúng ta tin cậy con người thiên nhiên và nghĩ, “ta là doanh nhân tốt” hoặc bất kỳ khả năng gì chúng ta có (Đức Chúa Trời ban cho chúng ta), Chúa sẽ không sử dụng cho đến khi chúng đi đến thập tự giá. Con người thiên nhiên phải bị đóng đinh trên (đi đến) thập tự giá.

    *Nguyên văn “pogroms” nói đến các cuộc thảm sát dân Do Thái ở Nga và Đông Âu dưới thời Nga Hoàng. Giữa năm 1881 và 1906 hơn một triệu người Do Thái đã đến New York, chạy trốn khỏi các vụ thảm sát đó. Tòa Án Dị Giáo (inquisition) của giáo hội Công giáo La Mã thiết lập từ thể kỷ 12 với mục đích chống lại dị giáo. Trong thời kỳ Cải Chánh, hàng ngàn người đã bị Tòa Án Dị Giáo thiêu chết ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. ND.

    Có bốn giai đoạn trong cuộc đời Gia-cốp. Sáng Thế Ký 25-27 là giai đoạn Gia-cốp vốn là như vậy. Thật được khích lệ khi chúng ta thấy phương cách cùng một số việc ông làm, thế nhưng dù thế nào đi nữa, Đức Chúa Trời đã yêu thương và chọn ông. Điều đó

    cho tôi rất nhiều bảo đảm và an ủi. Sáng 28-31 là thử thách và tan vỡ của Gia-cốp, nhưng rồi đến điểm khủng hoảng thật sự trong Sáng 32-36, “Trải Nghiệm Gia-bốc (Jabbok Experience)”—bị đánh trật xương hông về đời sống thiên nhiên ông. Cuối cùng ở Sáng 37-50 đến trái bình an công chính. Thế nhưng thậm chí vào cuối đời lúc đã già, Gia-cốp nói: “...các năm của đời tôi lấy làm ngắn ngủi và lại nhọc nhằn” (Sáng 47:9). Không có quá nhiều những người vĩ đại trong Thánh Kinh đã chết sung sướng, nhưng hầu như tất cả đều sung sướng chết.

    Khi chúng ta quá tốt ở thế gian nầy, tất cả chúng ta phải có thập tự giá. Tại sao? Nếu không, chúng ta bắt đầu tin cậy thế gian nầy và thoải mái vào đó. Thập tự giá thật tốt để giữ chúng ta khỏi rắc rối. Chúng ta rất giỏi về việc đưa chính mình vào rắc rối, bởi vì chúng ta là những tạo vật mới sống trong con người thiên nhiên. Lần nữa, Gia-cốp có lời hứa của Đức Chúa Trời, nhưng luôn cố gắng để có bằng sức riêng ông. Ông khéo léo, thông minh. Ông giỏi mưu mô và thao túng kẻ khác tự cho mình là khéo léo, thông minh và giỏi mưu mô. Phước hạnh được ban cho ông trong lời hứa của Đức Chúa Trời, nhưng ông lại cảm thấy mình phải có được bằng sức riêng.

    Kinh Thánh cho biết trong thư Ti-mô-thê rằng có những việc lành Chúa đã định sẵn trước cho chúng ta, bởi sự kêu gọi thánh từ trước muôn đời vô cùng (II Tim. 1:9). Chúng ta không đơn giản được tái sanh để đi đến thiên đàng—đó là lẽ thật sau cùng, nhưng chúng ta được tái sanh để làm việc gì đó ngay bây giờ. Ở vài điểm trong cuộc đời, Chúa sẽ chỉ rõ cho chúng ta đó là gì—các ân tứ, mục vụ của chúng ta,... vân vân. Nhưng xu hướng thiên nhiên trong bản chất con người chúng ta sẽ là có được theo khả năng mình. “Tôi là doanh nhân giỏi,” “tôi là nhà giáo tốt,” “tôi là phát ngôn viên lưu loát,” “tôi là nhà tổ chức đại tài,” “tôi là nhạc sĩ danh tiếng”— xu hướng thiên nhiên sẽ là phải cố có được theo các thiết bị thiên nhiên riêng của chúng ta. Đó là những gì phải đi đến thập tự giá.


  9. Chiếc Thang Của Gia-cốp

    Điều gì xảy ra với Gia-cốp tại Bê-tên? “Bê-tên” nghĩa là “nhà của Đức Chúa Trời” và đó cũng là nơi tổ phụ ông Áp-ra-ham có kinh nghiệm bước ngoặc trong bước đi của ông với Đức Chúa Trời (Sáng 12:8; 13:3-4). Những kinh nghiệm bước ngoặc trong bước đi của chúng ta với Đức Chúa Trời sẽ luôn xảy ra tại Bê-tên. Nếu chúng ta không ở Hội Thánh trong sự thông công, ít nhất một nơi của các Cơ Đốc nhân và sự nhóm lại, chúng ta sẽ không đến bước ngoặc đó với Đức Chúa Trời.

    Giờ đây chúng ta có vấn đề rất lớn. Trên khắp đất nước nầy, bởi những việc như “Kinh Nghiệm Toronto” và “Thất Bại Lakeland,” bởi mánh khóe vận động và sự lợi dụng tài chánh của Cơ Đốc nhân, bởi các giáo lý sai lạc, có những Cơ Đốc nhân không có nhà thờ, vì vậy họ nhóm tại nhà. Người trong các nhóm tư gia bắt đầu nhóm với người khác trong những nhóm tư gia ở trường học và những điều giống như vậy. Vấn đề là có thể Hội Thánh không gây ấn tượng, làm chúng ta thất vọng. Trên thực tế, Hội Thánh sẽ làm chúng ta thất vọng bởi Hội Thánh được tạo nên từ những người giống như chúng ta.

    Gia-cốp buồn ở Hội Thánh (tại Bê-tên)—ông ngủ (Sáng 28:10-17).* Nhưng ông đã thấy gì? “Người lấy một hòn đá làm gối đầu, và nằm ngủ tại đó; bèn chiêm bao thấy một cái thang bắc từ dưới đất, đầu đến tận trời, các thiên sứ của Ðức Chúa Trời đi lên xuống trên thang đó” (Sáng 28:12).

    *“Kinh Nghiệm Toronto (Toronto Experience)” và “Thất Bại Lakeland (Lakeland Fiasco)” là phong trào phục hưng của các giáo phái Ân Tứ (Charismatics) phát động ở Toronto, Ontario, Canada và Lakeland, Florida, Hoa Kỳ. Các phong trào nầy bị rất nhiều lời tố cáo, chỉ trích. ND.

    Chúng ta thấy gì trong Tin Lành Giăng? Chúa Jesus nói với Na-tha-na-ên.

    “Ngài lại phán: Quả thật, quả thật, Ta nói cùng các ngươi, các ngươi sẽ thấy trời mở ra, và thiên sứ của Ðức Chúa Trời lên xuống trên Con Người” (Giăng 1:51).

    Đây là mô tả “Chiếc Thang của Gia-cốp.” Chúng ta có thể không nghĩ nhiều về Hội Thánh, nhưng khi Đức Chúa Trời hạ thấp xuống chiếc thang từ trời, đó là nơi cơ bản: Thân Thể Đấng Christ, Hội Thánh. Đó là nơi chiếc thang đến và Ngài trèo xuống. Khi chúng ta thấy ai đó ở ngoài mối thông công, khi họ có sự lựa chọn khả thi để ở trong mối thông công, họ có vấn đề.

    Ở đất nước nầy ngày nay, chúng ta có khủng hoảng. Chúng tôi nhận được rất nhiều thư và tin nhắn từ những người bị ném ra khỏi Hội Thánh họ bởi những sự giống như Toronto. Có lần một ông từ Hội Thánh Báptít Lister Hill ở Leeds đi vào văn phòng chúng tôi, những người như vậy rất nhiều ở Toronto, rất nhiều trong lãnh đạo phụ nữ, rất nhiều nơi phong trào Ecumenism,* ông bị đuổi ra vì phản đối việc sau: Một gã đàn ông chuyển giới đã tự hoạn, mặc y phục cùng kiểu tóc phụ nữ, đến Hội Thánh và bẻ bánh ở lễ Tiệc Thánh tại nhà thờ Tin Lành Báp-tít ân tứ Toronto Blessing. Người trong Hội Thánh chấp nhận “cô” như chị em trong đức tin, và “mục vụ của cô” là bẻ bánh cho lễ Tiệc Thánh, ngay cả cho dù DNA ở mọi tế bào trong cơ thể hắn đều nói anh ta không phải “chị em” trong đức tin. Hắn là người anh em tái phạm tội, nếu thật là tín nhân, anh ta cần phải ăn năn. Họ tống ông nầy ra vì ông nói đây là sự gớm ghiếc (abomination).

    *Thuật ngữ Ecumenism đến từ tiếng Hy Lạp “oikoumene” có nghĩa “toàn bộ cư dân thế giới (the whole inhabited world)” là phong trào tìm kiếm sự hiệp nhất mọi Hội Thánh hữu hình của tất cả hệ phái Cơ Đốc toàn thế giới. ND.

    Người ta nói với tôi, “Điều gì sẽ còn tệ hại hơn những chuyện xảy ra ở Toronto hoặc Lakeland?” Hầu hết chúng ta xem các băng ghi hình của Rodney Howard-Browne, Kenneth Copeland, Todd Bentley cùng đồng bọn,* và vô cùng hoảng sợ. Những gì sẽ còn tồi tệ hơn sao? Nó sẽ đi đến vô luân. Điều chúng ta thấy ở Hội Thánh Báp-tít Lister Hill chỉ là dấu hiệu báo trước những gì sẽ đến. Lời Chúa cho chúng ta khuôn mẫu, còn các việc nầy sẽ đi đến chỗ vô luân. Vì vậy chúng ta có những người chẳng biết đi đâu. Mỗi ngày chúng ta nhận được các thỉnh cầu từ họ: “Tôi có thể đi đâu? Tôi có thể làm gì?”

    *Rodney Howard-Browne (sanh 12.6.1961 ở Nam Phi) mục sư theo ân tứ, cùng vợ sáng lập Hội Thánh The River tại Tampa Bay, Florida, Mỹ từ giữa thập niên 1990. Kenneth Copeland (sanh 06.12.1936 ở Lubbock, Texas, Mỹ) diễn giả, tác giả, một trong các lãnh đạo phong trào ân tứ Mỹ. Todd Bentley (sanh 10.1.1976 ở Sechelt, Canada) nhân vật chính của phong trào Phục Hưng Lakeland, Florida, Mỹ. ND.

    Gia-cốp không nhận thức được trong lúc ông ở nơi đó, vì thế Đức Chúa Trời bày tỏ cho ông trong giấc chiêm bao.

    Người dậy sớm, lấy hòn đá của mình dùng gối đầu, dựng đứng lên làm cây trụ, đổ dầu lên trên chót trụ đó...

    (Đó là nơi đã được xức dầu).

    rồi đặt tên chốn nầy là Bê-tên...

    (có nghĩa là “Nhà của Đức Chúa Trời”).

    còn nguyên khi trước tên thành là Lu-xơ. Gia-cốp bèn khấn vái rằng: “Nếu Ðức Chúa Trời ở cùng tôi, gìn giữ tôi trong lúc đi đường, cho bánh ăn, áo mặc...

    (Ông chẳng đòi hỏi nhiều, chỉ nhu cầu của mình).

    và nếu tôi trở về bình an đến nhà cha tôi, thì Ðức Giê-hô-va sẽ là Ðức Chúa Trời tôi. Hòn đá đã dùng làm trụ đây sẽ là đền Ðức Chúa Trời, và tôi sẽ nộp lại cho Ngài một phần mười mọi của cải mà Ngài sẽ cho tôi” (Sáng 28:18-22).

    Hội Thánh là nơi đã được xức dầu.

    Một trong các vấn đề của con người thiên nhiên là hắn nghĩ mình không cần sự thông công của những tín nhân khác—rằng hắn không cần phải đến nhà Đức Chúa Trời. Tôi đã dự buổi nhóm của Doanh Nhân Phúc Âm Toàn Vẹn (Full Gospel Businessman) có người đứng lên, rồi nói: “Đức Chúa Trời đã tỏ cho tôi phải ra khỏi đây” và “tôi đã trọn vẹn trong Chúa vì vậy tôi không cần điều nầy.” Đó không phải là Đức Chúa Trời. Hội Thánh là nơi đã được xức dầu. Nếu chúng ta muốn Chúa Jesus bước xuống từ trời và gặp chúng ta trên chiếc thang đó, Ngài sẽ làm việc nầy trong nhà của Đức Chúa Trời, là nơi Ngài đã chỉ định.

    Đây là một bước ngoặc, nơi then chốt cho Áp-ra-ham cũng như Gia-cốp, và cũng sẽ cho chúng ta. Nhưng con người thiên nhiên nghĩ hắn có thể đứng một mình. Không, Kinh Thánh cho biết: “Sắt mài nhọn sắt” (Châm 27:17).

    Đức Chúa Trời tể trị. Chúa không đến để cứu bạn, Ngài đã đến để cứu tất cả chúng ta. Chúa Jesus không đến vì bạn, Chúa đến vì Nàng Dâu của Ngài. Bạn phải dự phần trong đó. Con người thiên nhiên nghĩ hắn có thể đứng một mình, nhưng không thể. Hắn nghĩ hắn có thể gặp Đức Chúa Trời theo kỳ hạn riêng, nhưng không thể. Chiếc thang sẽ bắt xuống trong nhà của Đức Chúa Trời. Một lần nữa, tôi cảm thấy rất tiếc cho những người dường như chỉ chọn giữa Hội Thánh của Kenneth Hagin* trên phố, hay Hội Thánh Hiệp Nhất (Ecumenism) nơi góc đường, hoặc Toronto ở dưới giường, nhưng Đức Chúa Trời có giải pháp cho vấn đề. Tôi không biết đó là gì, nhưng Chúa Jesus vẫn muốn bước xuống chiếc thang và gặp chúng ta, và việc nầy sẽ xảy ra trong nhà của Đức Chúa Trời.

    * Kenneth Hagin (02.8.1917-19.9.2003) là diễn giả Mỹ theo Ân Tứ, phong trào Lời Đức Tin. ND.


  10. Tính Cách Của “Kẻ Tinh Ranh (Shrewdy)”

    Đức Chúa Trời biết Gia-cốp muốn gì. Hãy xem cách Gia-cốp “khấn vái” (Sáng 28:20). “Nếu Chúa ban cho tôi điều nầy, tôi sẽ dâng Chúa điều nọ.” Người Do Thái rất

    thích thương lượng. Chúng ta sẽ thương lượng như thế nào với Chúa? Chúa đưa ra các điều khoản của giao ước. Ngài biết Gia-cốp muốn thực hiện giao dịch. Chúa biết Gia-cốp sẽ cố đạt được phước hạnh, mục đích, và sự kêu gọi của Ngài bằng sức riêng. Phải chăng Chúa quở trách ông và phán: Gia-cốp, đừng làm điều đó? Không. Tôi có thể nói tôi cố gắng đến cật lực để bảo bạn: “Đừng làm điều đó,” bởi vì tôi có thể đứng trước gương và cật lực nói với chính mình: “Đừng làm điều đó.” Nhưng dù thế nào đi nữa tôi sẽ phải làm, và bạn cũng vậy. Vấn đề duy nhất là phải mất bao lâu để Chúa làm nên sự tan vỡ đó trong cuộc đời chúng ta? Không có gì chúng ta có thể làm để đến nơi Chúa muốn chúng ta ở được nhanh hơn, nhưng rất nhiều việc chúng ta làm có thể khiến nó chậm lại.

    Con dân Israel có nhớ mình ra khỏi xứ Ê-díp-tô để đi đến Đất Hứa không? Đây là khoảng cách nhỏ. Ngay cả đi bộ, một người có thể chỉ mất vài tuần, nhưng họ đã mất bốn mươi năm. Thế hệ thứ nhì đã vào Đất Hứa, chứ không phải thế hệ thứ nhất. Tạo vật cũ phải chết trong thế gian nầy; chỉ tạo vật mới có thể đi đến thiên đàng. Không có gì chúng ta có thể làm để đến thiên đàng nhanh hơn, song rất nhiều việc chúng ta làm có thể khiến nó chậm lại, và Gia-cốp chắc chắn làm chậm lại. Gia-cốp mắc kẹt với La-ban suốt mười bốn năm.

    Trong Sáng 28:20 đó là, “Chúa làm điều nầy và tôi sẽ làm việc kia.” Gia-cốp rời khỏi sự giàu có mình để đến với gia đình La-ban nghèo khó một thời gian, và như Y-sác, tất cả đều cho bối cảnh người phụ nữ tại giếng nước, dĩ nhiên ở Sáng Thế Ký đoạn 29.

    Người nói, “Nầy, trời hãy còn sớm…”

    (Khi ông đến với người phụ nữ tại giếng nước).

    “…chưa phải là giờ nhóm hiệp các súc vật; vậy, các anh hãy cho bầy chiên uống nước, rồi thả đi ăn lại đi. Ðáp rằng: Chúng tôi làm như vậy chẳng được; phải đợi các bầy hiệp lại đủ hết rồi, bấy giờ mới lăn hòn đá trên miệng giếng ra, cho bầy uống nước được” (Sáng 29:7-8).

    Loại nước gì ở trong giếng? Nước Sống—“mayim hayim” (Giăng 4:10). Theo Giăng 7:39, Nước Sống là gì? Đức Thánh Linh. Việc lăn hòn đá ra là hình bóng về điều gì? Sự Phục Sinh. Đức Thánh Linh không thể đến cho đến khi Chúa Jesus được phục sinh, rồi chiên có thể tụ họp lại. Đức Chúa Trời làm thành tất cả mục đích Ngài.

    Gia-cốp là “kẻ tinh ranh,” ông khéo léo, thông minh. Chúa đối phó với người tinh ranh và khéo léo thông minh như thế nào? Ngài hợp sức với ai đó còn ranh ma và tàn nhẫn hơn cả kẻ đó.

    Đức Chúa Trời đã từng đặt bạn vào mối quan hệ với tín nhân khác còn tính toán hơn cả bạn chưa? Tôi sẽ không thực hiện bất kỳ lời nói đùa nào về vợ tôi, nhưng người mà chúng ta kết hôn là người Chúa sẽ dùng đối phó với xác thịt chúng ta. Chúa không đặt chúng ta trong Hội Thánh chỉ để nhận phước hạnh và thụ hưởng việc lành, mà Ngài đặt chúng ta trong Hội Thánh để xung đột với các tín nhân khác cố tình chà đạp chúng ta cách sai trật. Bạn có nghĩ mình là kẻ tinh ranh không? Bạn có nghĩ mình thì tài tình, khéo léo không? Như Gia-cốp, tôi rất khéo léo đến nỗi đã mất nhiều năm với La-ban.

    Tôi đi vòng quanh thế giới với vé hạng nhất, tôi có bạn bè ở đỉnh cao công nghệ nhạc pop, tôi có hàng tấn tiền, và tôi kết thúc công việc tại nhà thuốc tây ở Haifa, Israel trong stetl*—khu ổ chuột thuần Do Thái chính thống suốt nhiều năm. Nơi đó, ở một bức tường đầy các toa thuốc, còn trên bức tường kia là những người thuộc các tổ chức chống truyền giáo. Tôi bí mật dò xét họ trải nhiều năm. Tôi nghĩ vào một ngày những gã nầy thấy tôi phân phát chứng đạo đơn, và đó sẽ chấm dứt công việc của tôi, kết thúc mọi sự. Chúa luôn bảo vệ tôi; Ngài luôn làm mờ mắt họ. Khi thấy họ đến, tôi sẽ đi—chỉ nhặt lấy chứng đạo đơn và chạy. Thật kinh khủng khi phải đếm những viên thuốc. Tôi ghét việc đó, nó nhàm chán và ngu ngốc. Không chỉ vậy, sau khi được cứu, tôi ngỡ những ngày bán ma túy của tôi đã chấm dứt. Hỡi các chàng trai, tôi lại có suy nghĩ khác. Đức Chúa Trời có thể cứu chuộc bất kỳ việc gì, song nó cứ lại tiếp tục suốt nhiều năm. Nếu bạn dùng mỗi ngày, bạn sẽ học tiếng Hê-bơ-rơ tốt hơn nhiều, so với khi bạn không sử dụng.

    *Stetl, số nhiều stetlekh là thị trấn nhỏ với dân Do Thái rất đông. Stetlekh tồn tại ở Trung và Đông Âu (Đế Quốc Nga, Ba Lan, Galicia, và Romania) vào thế kỷ 19, trước nạn diệt chủng người Do Thái của Đức Quốc Xã. Một số cư dân ở stetl đã di cư trước và sau Holocaust, chủ yếu là đi đến Israel và Mỹ. ND.

    Tôi thường dùng bữa ở New York và tôi rất sợ người Do Thái Chính Thống giáo. Tôi không chạy trốn, nhưng lo lắng khi thấy họ đến. Làm việc lân cận họ, sống bên cạnh họ, và đối phó với họ mỗi ngày, tôi học được rất nhiều về nền văn hóa họ, về cách họ ở, và những việc bí mật trong cuộc sống họ. Họ không tin việc kiểm soát sinh sản, nhưng phụ nữ họ dùng thuốc. Họ dùng nhiều thuốc an thần vì họ dễ bị kích thích thần kinh. Tôi học được rất nhiều rằng Đức Chúa Trời đã mang tôi ra khỏi từng trải khủng khiếp đó, nầy là nơi Chúa đối xử với tôi. Tôi không biết nơi của bạn sẽ là gì, nhưng Đức Chúa Trời sẽ đặt bạn cùng với một “La-ban” khác.

    Gia-cốp là kẻ bội tín tốt lành—ông nắm lấy gót chân anh mình. La-ban đã lừa bịp ông, gã cho ông con gái khác. Rồi Gia-cốp lừa bịp lại La-ban với gia súc. Ông luôn đấu tranh trong xác thịt—“Ta sẽ có được hắn.”

    “Anh em vui mừng về điều đó, dầu hiện nay anh em vì sự thử thách trăm bề buộc phải buồn bã ít lâu; hầu cho sự thử thách đức tin anh em quý hơn vàng hay hư nát, dầu đã bị thử lửa, sanh ra ngợi khen, tôn trọng, vinh hiển cho anh em khi Ðức Chúa Jêsus Christ hiện ra” (I Phi. 1:6-7).

    Cái gì quý hơn vàng? Kim cương ở trong nó.

    Tiền công của Gia-cốp thay đổi, ông phải lấy cô gái khác, và kết thúc công việc nơi đó hai mươi năm, thay vì lúc đầu bảy năm mà ông đồng ý. Song tại đỉnh điểm việc gì đó xảy ra với Gia-cốp, đó là giai đoạn thứ nhì: Sự đập vỡ của Chúa. Rồi đêm tối của linh hồn đến. Ngay cả Cơ Đốc nhân thần bí thời Trung Cổ cũng biết về việc đó.


  11. Tan Vỡ Trước Khi Phước Hạnh

    Sau hai mươi năm, Gia-cốp không học được bao nhiêu. Sau hơn hai mươi năm là Cơ Đốc nhân, tôi không học được nhiều như mình nên học. Có nhiều hơn về “Gia-cốp” ở một số người chúng ta so với những kẻ khác. Nhưng tôi sẽ nói với bạn rằng bạn càng

    thông minh, càng được giáo dục, càng tài giỏi, khả năng kinh doanh của bạn càng tốt, Đức Chúa Trời sẽ đập vỡ đời sống bạn càng khó khăn hơn.

    Hãy nghĩ đến cậu bé mang cho Chúa Jesus phần ăn trưa của mình (Gi. 6:9). Cậu bé từ Ga-li-lê trao phần ăn trưa của mình cho Chúa Jesus, Ngài lấy bánh, ban phước, bẻ ra rồi phân phát cho người khác. Chúng ta muốn Chúa sử dụng khả năng thiên nhiên của mình—bất cứ gì chúng ta có? “Lạy Chúa, xin ban phước cho con!” Ngài sẽ ban phước cho bạn. “Lạy Chúa, xin hãy sử dụng con!” Ngài sẽ sử dụng bạn. Nhưng trước khi Chúa có thể sử dụng bạn, và sau khi Ngài ban phước cho bạn, có yếu tố kín giấu: Đức Chúa Trời chẳng ban phước cho người mà Ngài không đập vỡ, và Chúa không sử dụng kẻ Ngài chẳng đập vỡ. Cậu bé không có gì nhiều, thật dễ dàng để cậu bị đập vỡ. “Lạy Chúa, con có bằng Ph.D. (tiến sĩ).” “Con đã mất ba mươi năm gây dựng doanh nghiệp nầy.” Chúng ta có thể thấy khó khăn thể nào để người đó bị tan vỡ. Họ sẽ là “Gia-cốp.” Kẻ nào càng có nhiều, Đức Chúa Trời sẽ đập vỡ đời sống họ càng khó khăn hơn.

    Giá trị Đức Chúa Trời đối nghịch với giá trị của thế gian. Trước hết, kẻ có lợi thế thì khó được cứu hơn người có hoàn cảnh bất lợi. Người đơn giản hơn, nghèo khó hơn, phải được cứu dễ dàng hơn, bởi không có đất cho kẻ kiêu ngạo. Thứ nhì, sau khi một người được cứu, họ càng yếu đuối Chúa sẽ càng uốn nắn họ dễ dàng hơn. Thứ ba, càng có nhiều, họ càng phải chịu trách nhiệm hơn. Chúa ban cho họ nhiều khả năng thiên nhiên hơn, vì vậy Ngài trông đợi họ nhiều hơn. Chúa trông đợi nhiều hơn, do đó họ sẽ trải qua thử thách tồi tệ hơn, trước khi Ngài có thể sử dụng họ. Giá trị Chúa luôn là đối nghịch.

    Thế gian nói, “tôi muốn tiền bạc, đặc quyền, lợi thế,” nhưng khi Chúa ban cho các điều đó thì sẽ càng khó được cứu—không phải bởi Ngài lựa chọn, bèn theo bản chất sa ngã chúng ta. Sự phá vỡ của Đức Chúa Trời sẽ khó khăn hơn, nhưng không chỉ vậy, những kẻ Ngài phá vỡ sẽ phải chịu trách nhiệm hơn. Hãy xem Phao-lô; ông được giáo dục, Phi-e-rơ thì không. Chúa dùng Phao-lô nhiều hơn Phi-e-rơ, nhưng hãy nhìn vào thể nào sự tan vỡ trong đời sống Phao-lô tồi tệ hơn của Phi-e-rơ. Một số người có nhiều hơn, Chúa sẽ càng đập vỡ họ và bắt họ chịu trách nhiệm hơn. Giá trị Chúa thì luôn đối nghịch với giá trị con người. Có nhiều “Gia-cốp” ở một số người chúng ta hơn những kẻ khác. Thế nhưng, bất chấp vi phạm và mưu mô của ông, Chúa vẫn yêu thương ông.

    Có sự kiện nào đó trong cuộc đời Gia-cốp bất kể những gì ông làm, ông thấy Chúa bày tỏ chính mình Ngài theo cách cá nhân: “Gia-cốp, Ta đã yêu thương, lựa chọn, kêu gọi ngươi, và mang ngươi xa điều nầy, Ta sẽ dẫn dắt ngươi phần đường còn lại.” Ân điển Đức Chúa Trời thật kỳ diệu, phải không? Bất kể bao nhiêu lần chúng ta khoe khoang khoác lác, bất kể bao nhiêu lần chúng ta sa ngã và dại khờ, sẽ có những lần trong cuộc đời tín nhân, khi Chúa bày tỏ chính mình Ngài theo cách cá nhân, và phán: “Dù thế nào đi nữa Ta cũng yêu thương, lựa chọn, kêu gọi ngươi —Ta sắm sẵn cho các ngươi một nơi mà Ta sẽ dắt các ngươi đi, và các ngươi sẽ ở đó dù các ngươi có thích hay không.”

    “Tôi tin chắc rằng Ðấng đã khởi làm việc lành trong anh em, sẽ làm trọn hết cho đến ngày của Ðức Chúa Jêsus Christ” (Phi-líp 1:6).

    Hãy giữ mình, đừng tái phạm tội—Chúa sẽ đến với bạn nơi đó. Nhưng giờ đây chúng ta đi đến đêm tối của linh hồn.


  12. Hai Trại Quân

    Là Cơ Đốc nhân tái sanh, nếu chúng ta tiếp tục đi với Chúa Jesus sẽ đến một lúc trong cuộc đời, chúng ta phải trải qua loại thử thách khác hơn bất kỳ thử thách nào chúng ta đã trải qua trước đây hoặc sẽ trải qua sau nầy.

    Chúng ta có hai loại thử thách ở Kinh Thánh: “thung lũng” và “đồng vắng.” “Thung lũng” là thử thách đơn lẻ, “đồng vắng” là thời gian thử nghiệm kéo dài, thường kết hợp với con số bốn mươi trong Thánh Kinh. Đây là thung lũng dài hơn các thung lũng khác và đồng vắng chết chóc hơn các đồng vắng khác. Đó là sa mạc trong sa mạc. Với Gia-cốp nó xảy ra tại Phê-ni-ên, khe Gia-bốc. Những gì Gia-cốp đã làm là điều chúng ta trông đợi để làm. “La-ban dậy sớm, hôn các con trai và các con gái mình, và chúc phước cho, rồi đi trở về nhà mình” (Sáng 31:55).

    Gia-cốp nghĩ đó là kết thúc thử thách mình. Ông trải qua điều nầy suốt mười bốn năm. Có câu nói thông tục: “Trời tối nhất trước lúc bình minh.” Đó là đúng. Câu nói sai là: “Có ánh sáng ở cuối đường hầm.” Chẳng có ánh sáng ở cuối đường hầm. Cuối đường hầm có bóng tối tồi tệ nhất, rồi đến ánh sáng.

    Sau mười bốn năm giúp việc (mất bảy năm cho mỗi cô gái)—những năm dài cố gắng, Gia-cốp nghĩ, “Cuối cùng, chuyện đã qua! Giờ đây ta có thể trở lại với những gì Đức Chúa Trời hứa với mình tại Bê-tên, điều Ngài hứa với cha mẹ khi ta được sanh ra. Ta có thể nhận lấy phước hạnh đó bây giờ. Chúa đã làm nên những việc nầy trong đời ta sau những năm Ngài đưa ta đến với La-ban, với một số người khác như ta.”

    Hãy ghi nhận rằng người chống lại chúng ta hầu như là người giống chúng ta nhất. Người mà chúng ta gặp với đặc điểm và tính cách tiêu cực riêng của chúng ta sẽ là những người chúng ta xích mích, va chạm nhiều nhất. Người làm chúng ta khó chịu nhất là kẻ giống chúng ta nhất. Đặc biệt nếu họ thậm chí còn thích chúng ta hơn cả chúng ta nữa.

    “Gia-cốp cứ đi đường, có thiên sứ Ðức Chúa Trời gặp người. Khi Gia-cốp thấy các vị nầy, nói rằng: Ấy là trại quân của Ðức Chúa Trời! Nên người đặt tên chỗ đó là Ma- ha-na-im” (Sáng 32:1-2). Ma-ha-na-im nghĩa là “hai trại quân.”

    “Gia-cốp sai sứ giả đến trước cùng Ê-sau, anh mình, trong xứ Sê-i-rơ thuộc về địa phận Ê-đôm; người bèn dặn rằng: Các ngươi hãy thưa cùng Ê-sau, chúa ta như vầy…” (Sáng 32:3-4).

    Ông biết người anh nầy chẳng thích mình, và ông biết tại sao anh nầy không thích ông, và ngay cả ông còn biết mình đã hủy hoại anh ta theo cách nào đó.

    “Gia-cốp, kẻ tôi tớ chúa, có nói như vầy rằng: Tôi đã ngụ tại nhà La-ban đến ngày nay; có bò, lừa, chiên, tôi trai, tớ gái; vậy, xin sai đi nói cho chúa hay trước, hầu cho nhờ được ơn trước mặt chúa tôi” (Sáng 32:4-5).

    Đó cũng giống như nói: “Tôi có đại lý xe hơi. Hãy đến và chọn một chiếc! Anh muốn xe El Dorado không? Hay là Mercedes?* Tôi sẽ trao anh chìa khóa! Hỡi anh, tôi yêu thương anh! Xin hãy lấy nó và đi! Hãy lái ra khỏi đây!”

    *El Dorado hay Cadillac Eldorado và Mercedes là hai loại xe hạng sang của Mỹ và Đức dành cho các nguyên thủ quốc gia, người giàu có và nổi tiếng. ND.

    Tại sao gọi nơi đó là “Ma-ha-na-im”—“hai trại quân”? Tôi lớn lên ở New Jersey ngay con sông ngang qua từ Thành Phố New York, và láng giềng chúng tôi là người bạn thân của cha mẹ tôi, ông nầy là chủ một chuỗi các cửa hàng rượu được gọi là “Harry’s” nhưng tên thật ông là Haime. Người ta ngỡ đó là “Harry” nhưng bạn bè như song thân tôi gọi ông là “Haime,” và ông là những gì chúng ta gọi là người Do Thái “nhân lành” bởi vì ngay cả dân ngoại cũng thích ông. Một trong các con trai ông là Arthur quản lý chuỗi cửa hàng rượu nầy. Điều hầu hết mọi người không biết rằng Arthur cũng là nha sĩ. Ai nấy đều nghĩ Arthur là doanh nhân như cha anh, mà thật ra như vậy, nhưng họ không biết anh cũng là nha sĩ. “Có thể là phiền muộn ngã lòng, có thể là bị ngăn cấm, nhưng người ta luôn bị đau răng.” Anh muốn có sự dự phòng. Anh thì tài giỏi theo cách đó. Dân Do Thái tài giỏi theo cách nầy, họ có tâm trạng sinh tồn như kết quả của lịch sử mình, và họ đi qua như vậy. Vì thế Gia-cốp sắp đặt theo hai hướng (hai trại quân). “Nếu cửa hàng giày của tôi xuống dốc, tôi luôn có thể bán hoa hồng.” Ông luôn tinh khôn tài giỏi, luôn tính toán làm thế nào để sống sót.

    Vợ tôi cũng như thế. Song thân vợ tôi sống sót sau Holocaust, và rồi họ là những người Refuseniks dưới thời Ceausescu.* Với vợ tôi, theo cách cô trưởng thành, không có gì quan trọng hơn là làm sạch nhà cửa, nấu ăn, và may vá—bạn luôn có thể tìm được một shiksa** để làm các việc đó. Với cô ấy thì khác: Bạn nói bao nhiêu ngôn ngữ? Bạn được giáo dục ra sao? Bạn tài giỏi trong kinh doanh như thế nào? Bạn có nghề nghiệp sẽ luôn cần nếu bạn phải chạy trốn không? Mọi sự đều theo định hướng được sống sót. Nếu “điều nầy” thất bại, bạn sẽ vẫn có mọi sự; đó chỉ là tâm trạng sinh tồn.

    *Refusenik, tiếng Nga nghĩa là từ chối (refusal). Refusenik là thuật ngữ không chính thức dùng cho cá nhân dân Do Thái từ Nga bị chính quyền Liên Xô và các nước cộng sản Đông Âu từ chối cho phép di dân. Nicolae Ceausescu (26.1.1918-25.12.1989) tổng bí thư đảng cộng sản Romania từ năm 1965. Sau cuộc nổi dậy của dân chúng, Nicolae Ceausescu cùng vợ là Elena bị kết án tử hình và bị xử bắn vào 25.12.1989, kết thúc chế độ cộng sản ở Romania, rồi sau đó là Nga và toàn thể Đông Âu. ND.

    **Shiksa là từ Yiddish (tiếng Đức cổ của dân Do Thái ở Trung và Đông Âu), dùng chủ yếu cho văn hóa người Do Thái ở Bắc Mỹ. Shiksa là thuật ngữ nói về người phụ nữ không phải dân Do Thái. ND.

    Gia-cốp đặt chúng vào hai trại quân, ông thì luôn có mưu mô.

    Tôi... có bò, lừa, chiên, tôi trai, tớ gái; vậy, xin sai đi nói cho chúa hay trước, hầu cho nhờ được ơn trước mặt chúa tôi.

    Các sứ giả trở về nói cùng Gia-cốp rằng: Chúng tôi đã đi đến Ê-sau, anh của chủ; nầy, người đang đem bốn trăm người đến để rước chủ. Gia-cốp rất sợ hãi và sầu não, bèn chia các dân đi theo, cùng các bầy chiên, bò, lạc đà ra làm hai đội, mà rằng: Nếu Ê- sau đến hãm đánh một trong hai đội, thì đội còn lại sẽ thoát được. Đoạn, Gia-cốp cầu rằng: Hỡi Đức Chúa Trời của tổ phụ Áp-ra-ham tôi! Đức Chúa Trời của cha Y-sác tôi,

    tức là Đức Giê-hô-va! Ngài có phán dạy tôi rằng: Hãy trở về xứ ngươi và nơi bà con ngươi, rồi Ta sẽ làm ơn cho ngươi! Tôi lấy làm hèn mọn không đáng chịu các ân huệ…

    “Tôi biết tôi không tốt—tôi ăn năn! Xin cho tôi ra khỏi đây!” Hỡi chàng trai, khi gặp rắc rối, chúng ta có tôn giáo.

    …và các điều thành thực mà Ngài đã làm cho kẻ tôi tớ Ngài; vì lúc trước khi qua sông Giô-đanh chỉ có cây gậy tôi, mà ngày nay tôi lại trở nên hai đội quân nầy. Vậy, cầu xin Đức Chúa Trời giải cứu tôi khỏi tay Ê-sau, anh tôi, vì e người đến đánh tôi và đánh luôn mẹ với con nữa.

    Giờ đây ông sợ cho gia đình mình.

    Vả, Ngài có nói rằng: Quả thật vậy, Ta sẽ làm ơn cho ngươi, và làm cho dòng dõi ngươi đông như cát bãi biển, người ta sẽ không biết sao đếm được, vì đông đúc quá (Sáng 32:5-12).

    Ông bắt đầu nghi ngờ lời hứa của Đức Chúa Trời, vì vậy ông phải nhắc nhở Ngài.


  13. Đêm Tăm Tối Của Linh Hồn

    Khi ở trong đêm tối của linh hồn, chúng ta bắt đầu nghi ngờ lời hứa của Đức Chúa Trời ban cho chúng ta, và chúng ta âm mưu, cầu nguyện, và làm mọi sự mình có thể, bởi vì giờ đây chúng ta biết nó sắp đến. Rồi điều gì xảy ra? Sau khi cầu nguyện, Gia-cốp còn âm mưu hơn nữa.

    Người dặn tên dẫn bầy đi trước hết như vầy: Khi Ê-sau, anh ta, gặp và hỏi ngươi rằng: Ngươi ở với ai, đi đâu, và bầy súc vật trước mặt ngươi đó thuộc về ai? Thì hãy thưa rằng: Của Gia-cốp, kẻ tôi tớ chúa; ấy là một lễ gởi dâng cho Ê-sau, chúa tôi; và nầy, chánh mình người đang theo sau (Sáng 32:17-18).

    Ông cố để mua chuộc anh mình. “Bạn có tiền mặt, tôi nhận được xá tội!” Đó là những gì họ nói ở Ai-len (Vương Quốc Anh): “Tiền nhiều, lễ Mass nhiều; tiền ít, lễ Mass ít; không có tiền, Ngục Luyện Tội.”

    Ban đêm, người thức dậy, dẫn hai vợ, hai tên đòi và mười một đứa con mình đi qua rạch Gia-bốc. Người đem họ qua rạch, và hết thảy của cải mình qua nữa. Vả, một mình Gia-cốp ở lại; thì có một người vật lộn với mình đến rạng đông. Khi người đó thấy mình không thắng nổi, bèn đánh vào xương hông Gia-cốp; xương hông liền trặc trong khi vật lộn. Người đó bèn nói: Trời đã rạng đông rồi; thôi, để cho Ta đi; nhưng Gia-cốp đáp rằng: Tôi chẳng cho người đi đâu, nếu người không ban phước cho tôi. Người đó hỏi: Tên ngươi là chi? Đáp rằng: Tên tôi là Gia-cốp. Người lại nói: Tên ngươi sẽ chẳng là Gia-cốp nữa, nhưng tên là Y-sơ-ra-ên, vì ngươi đã có vật lộn cùng Đức Chúa Trời và người ta; ngươi đều được thắng. Gia-cốp hỏi: Xin cho tôi biết tên người. Đáp rằng: Làm sao ngươi hỏi tên Ta? Rồi người nầy ban phước cho Gia-cốp tại đó. Gia-cốp đặt tên chỗ đó là Phê-ni-ên, vì nói rằng: Tôi đã thấy Đức Chúa Trời đối mặt cùng tôi và linh hồn tôi được giải cứu.

    “Không ai thấy mặt Ta (Đức Chúa Trời) mà còn sống” (Xuất 33:20). Bạn thấy, đó là lý do tại sao Chúa Jesus phải trở nên con người.

    Khi qua nơi Phê-ni-ên, thấy mặt trời mọc rồi; và người đi giẹo cẳng. Bởi cớ đó, cho đến ngày nay dân Y-sơ-ra-ên chẳng bao giờ ăn gân bắp vế của lối xương hông; vì người đó có đánh vào xương hông Gia-cốp, nơi gân của bắp vế (Sáng 32:22-32).

    Chúng ta thấy “Gia-cốp” luôn phải làm thế nào với các con trai Israel, đặc biệt là dân Do Thái. Ông được phước một mình. Khi đêm tối của linh hồn xảy ra trong cuộc đời, chúng ta sẽ còn lại một mình. Cơ Đốc nhân khác không thể liên quan đến thử thách của chúng ta; ngay cả gia đình cũng chẳng thể giúp chúng ta. Đó là từng trải cô đơn. Không có ai ở đó ngoài chúng ta và Chúa, rồi chúng ta ngỡ Ngài đang chống lại chúng ta. Chúng ta vật lộn với Chúa: “Tại sao Chúa làm như vậy? Tại sao Ngài bận lòng cứu tôi? Tại sao Chúa lại chọn tôi? Tại sao Chúa ban cho những lời hứa nầy, nếu Ngài không giữ mà lại hủy diệt tôi?” Mọi âm mưu của ông sẽ chẳng còn hiệu lực nữa—ông đã gặp rắc rối.

    Thiên sứ nầy được gọi là “thiên sứ của Chúa” với mạo từ xác định (definite article) trong tiếng Hê-bơ-rơ. Kinh Talmud gọi Ngài trong tiếng Hy Lạp là “Metatrone”—“thiên sứ ngự ở giữa ngai.” Đó là “Christophany,” biểu hiện trong Cựu Ước về Chúa Jesus. Ông vật lộn với Chúa Jesus đến hết đêm, đêm tối linh hồn mình, và ông chiếm ưu thế. Ông chiến thắng như thế nào? Bởi chiến bại.


  14. Chiến Thắng Bởi Chiến Bại

    Đây là cách duy nhất chúng ta sẽ nhận phước hạnh Đức Chúa Trời và chiến thắng. Các giá trị Chúa luôn hiện diện trong chúng ta và chúng ta nghĩ mình phải ghim chúng xuống và khiến chúng gọi: “Chú (Uncle)!” Đức Chúa Trời phán: “Không, ngươi phải thất bại. Ta sẽ khiến ngươi nói: “Chú (Uncle)!” và rồi ngươi sẽ thắng trận chiến.”

    Xương đùi (femur) của Gia-cốp—xương bắp đùi (thigh bone) bị trật khớp. Xương đùi là xương chắc nhất ở cơ thể con người. Tôi từng nói rằng bạn có thể đặt cả chiếc xe Volkswagen trên xương đùi của người nam trưởng thành, và nó sẽ không gãy.

    Trước khi tin Chúa, tôi là đại lý ma túy cocaine. Tôi thường buôn lậu đủ mọi thứ ở Phi Châu và chất gây nghiện ở Nam Mỹ. Tôi hay đến dùng tiệc với các ngôi sao nhạc rock. Tôi biết cách lợi dụng họ, tôi biết trò chơi được diễn thế nào. Tôi biết kiếm tiền ra sao. Tôi thường biển thủ tiền bằng máy tính. Tôi đã đi qua đêm tối của linh hồn. Với tôi khoảng thời gian đó là hai năm một tháng. Thật khủng khiếp. Đó không phải thử thách, cũng chẳng phải tan vỡ, mà là cái chết của con người thiên nhiên.

    Sau việc đó, Gia-cốp đi giẹo chân. Trải qua đêm tối của linh hồn, chúng ta sẽ đi giẹo chân. Hãy nhớ, xương đùi là nơi mạnh nhất của con người. Chúng ta đi giẹo chân. Là Cơ Đốc nhân, điều gì sẽ xảy ra khi chúng ta đến với kinh nghiệm Gia-bốc trên bước đường mình đi? Đức Chúa Trời sẽ chạm vào nơi mạnh nhất của con người. Tính cách, trí tuệ, ngoại hình của chúng ta—bất cứ điều gì tốt đẹp, là những gì Ngài sẽ đánh vào: Nơi mạnh nhất của chúng ta. Chúng ta sẽ đi giẹo chân, và không bao giờ như vậy lần nữa.

    Việc ấy sẽ kéo dài bao lâu? Cho đến hết đêm.

    Không ai thật sự nghiêm túc về việc nhận được phước hạnh và mục đích của Đức Chúa Trời cho cuộc đời mình mà không trải qua kinh nghiệm nầy. Đêm tối kéo dài bao lâu, thì sự tan vỡ liên quan đến cá nhân đó sẽ tồi tệ thể nào. Sau khi xảy ra kinh nghiệm nầy sẽ không bao giờ như vậy lần nữa, nhưng sau khi xảy ra, rồi thì Chúa ban phước cho chúng ta. Sau khi xảy ra, rồi thì Chúa sử dụng những khả năng con người chúng ta. Tại sao? Bởi vì chúng ta không còn ỷ lại vào chúng nữa, chúng ta đã đi giẹo chân. Chúng ta chẳng còn tin cậy vào cảm xúc riêng, không còn tin cậy vào con người thiên nhiên, chúng ta đã học cách khó khăn những gì xảy ra khi làm điều đó. Rồi chúng ta nhận được phước hạnh.


  15. Tên Mới

Gia-cốp chiến thắng và ông nhận được tên mới. Kinh Thánh cho biết gì trong Khải Huyền? “Kẻ nào thắng, Ta sẽ ban cho... một tên mới” (Khải 2:17).

Thật thú vị là sau việc nầy, khi Gia-cốp cư xử trong bản chất cũ của mình ở Phê-ni- ên, Sáng Thế Ký gọi ông là “Gia-cốp,” nhưng rồi lúc ông cư xử như tạo vật mới, Kinh Thánh gọi ông là “Y-sơ-ra-ên.” Với chúng ta cũng vậy. Khi chúng ta cư xử như người nam, hoặc người nữ bản chất cũ, Đức Chúa Trời gọi chúng ta bằng tên cũ, nhưng lúc chúng ta cư xử như người nam, hoặc người nữ tan vỡ, chúng ta chiến thắng và nhận được phước hạnh—ai cư xử như người nam và người nữ thuộc linh—Chúa gọi chúng ta bằng tên mới.

Tôi có hai tên, bạn có hai tên, tất cả chúng ta đều có hai tên. Chúng ta có tên khi được sanh ra, nhưng có tên khác khi chúng ta được tái sanh. Nhưng chúng ta phải có tên trong Sách Sự Sống, và chúng ta phải kiếm được quyền để được gọi bằng tên nầy. Chúng ta phải vật lộn, chúng ta phải chiến thắng, chúng ta phải nhận được phước hạnh. Tất cả chúng ta đều là “Gia-cốp.” Tất cả chúng ta phải có sự tan vỡ, tất cả chúng ta phải có đêm tối của linh hồn, để khi kết thúc chúng ta sẽ không hối tiếc.


Phần II – Bài Học Cho Israel

1. Vấn Đề Của Các Chi Phái 2. 144.000 Người

  1. Vấn Đề Về Nhân Dạng

  2. Trở Về Đất Hứa

5. “Gia-cốp” Đấu Với “Y-sơ-ra-ên”

  1. Lời Tiên Tri Của Gia-cốp

  2. Sự Quan Trọng Của Giu-đa

  3. Các Chi Phái

  4. Ứng Dụng Những Đặc Điểm Của Các Chi Phái

  5. Kết Thúc Từ Lúc Ban Đầu

  6. Tại Sao Lại Chọn Gia-cốp?

  7. Mọi Sự Sẽ Được Hoàn Thành


1. Vấn Đề Của Các Chi Phái

Gia-cơ, tôi tớ Ðức Chúa Trời và Ðức Chúa Jesus Christ, đạt cho mười hai chi phái ở tan lạc, chúc bình an (Gia-cơ 1:1).

Có thể một số ý nghĩa thuộc linh dự định trong cách nói của Gia-cơ với “Mười Hai Chi Phái” song như một thể loại, các thư tín không sử dụng ý nghĩa hình thể học hoặc tượng trưng mà không làm ra vẻ các tín nhân hiểu ý nghĩa. Các thư tín phải được hiểu theo nghĩa đen.

Chúng ta biết trong Sách Lu-ca, bà tiên tri An-na từ chi phái A-se (Lu. 2:36). Hầu hết Cơ Đốc nhân có ý tưởng sai lầm rằng mười chi phái phía Bắc—nhưng tất cả chi phái Bên-gia-min, Giu-đa và dòng Lê-vi—đều bị đi làm phu tù. Đó là sai lầm, người trung tín ở Israel sẽ đi về phía Nam đến Giu-đa. (Người trung tín sẽ luôn lìa bỏ những Hội Thánh bất trung trước khi sự đoán phạt của Chúa giáng trên họ). Họ giữ nhân dạng mình trong thời kỳ Đền Thờ Thứ Nhì mọi cách cho đến thời kỳ của Chúa Jesus.

Ở Liên Hiệp Vương Quốc Anh (UK), điều mà ít nhất đã có từ thế kỷ trước gọi là “Anglo-Israelism.” Các ông bà tôi đến từ phía Bắc nước Anh (England), trừ ra một người bà là từ Glasgow (Scotland), và tôi gặp số người Anglo-Israelism ở Speaker’s Corner.* Họ có tất cả chất Anh ở Do Thái, một trong số họ mang danh hiệu, Giao Ước Với Con Người. Họ nói những việc như, “Sư tử Giu-đa là sư tử Scotland,” và khẳng định Quần Đảo Aran được đặt tên theo A-rôn.** Họ đã tạo ra tất cả. (Khi họ thấy con gái nhỏ của tôi sanh ở Israel và gia đình thì từ Scotland và England, họ nghĩ cô bé bước ra khỏi đĩa bay). Việc nầy hoàn toàn không có bất kỳ cơ sở nào trong Kinh Thánh hoặc nhân chủng học.

*Anglo-Israelism hay British-Israelism (chủ nghĩa Do Thái Anh), dựa trên giả thuyết người Tây và Bắc Âu là dòng dõi trực hệ của Mười Chi Phái Thất Lạc của người Do Thái cổ đại, đặc biệt ở Vương Quốc Anh. Họ cho rằng Hoàng Gia Anh là hậu duệ trực tiếp từ Vua Đa-vít. Speaker’s Corner hay Freedom of Speech, ở Công Viên Hyde Park, London. Speaker’s Corner là nơi mọi người được tự do nói lên ý tưởng mình, kể từ 1904 đến nay vào Chúa Nhật rất đông người đến để nghe và xem. ND.

**Aran Islands hay The Arans là nhóm ba đảo nằm ở cửa Vịnh Galway, bờ phía Tây Ireland. ND.

Theo nhân chủng học, dân Celtic không phải là quốc gia, mà thuộc nhiều giống dân: Có người Cornish, Scottish, Welsh, Irish. Những người nầy có các điểm chung nào đó. Nhưng các cư dân Quần Đảo Anh (British Isles) là dân Anglo-Saxons—Germanic. Rồi người Normans—Vikings đến Pháp, và sau đó đến Anh. Dân của nhiều tầng lớp xã hội đã xâm chiếm Vương Quốc Anh và phối hợp vào nhân dạng người Anh khoảng thời gian nhiều thế kỷ. Người Anh không phải là giống dân thuần chủng—họ chưa bao giờ là dân thuần chủng. Vì vậy làm thế nào dân ấy lại đạt được điều gì đó như Anglo-Israelism? Họ không có nét đặc trưng Xê-mít (Semitic). Hãy đi đến người với nét đặc trưng Xê-mít: Người Yemen, Do Thái, Sephardic, Ả-rập, Bedouins thuần huyết—họ có giống như dân đến từ Anh? Không. Hầu như thật tức cười cả về nhân chủng học cũng như thần học.

Mười hai chi phái là nền tảng, là cơ sở. Trong Khải Huyền 4 chúng ta thấy hai mươi bốn trưởng lão, dường như là mười hai sứ đồ và mười hai con trai Gia-cốp. Nhưng tất cả có cách thuộc linh hóa đúng cơ sở của mười hai chi phái.

Nếu đi đến tu viện Domitian Abbey (thuộc Công giáo La Mã) ở Jerusalem, chúng ta sẽ thấy hình ba vòng tròn đồng tâm giống như chiếc bánh bị cắt ra thành mười hai phần. Phần trong cùng chứa tên mười hai con trai của Gia-cốp, mười hai tổ phụ Israel, một người cho mỗi chi phái. Vòng tròn thứ hai tương ứng với mười hai con trai Gia-cốp, đại diện tên của mười hai Sứ Đồ. Bạn có thể đoán ở vòng tròn ngoài cùng là gì không? Vòng Hoàng Đạo (The Zodiac).*

*Hoàng Đạo (Zodiac) là vòng tròn được chia thành mười hai cung bằng nhau, mỗi cung 30 độ đại diện cho một thuộc bốn nhóm yếu tố (lửa, nước, khí, đất). Zodiac được các nhà chiêm tinh học Ba-by-lôn cổ đại tạo ra khoảng năm 1645 trước Chúa. Zodiac cũng tương tự “12 Con Giáp” của Trung Hoa. ND.

Tôi nhận được thư và email từ những người nghĩ rằng tôi suy đoán ra tất cả. Hãy tin tôi, tôi không suy đoán. Tôi có thể biết điều người ta nói về những sự như Khải Huyền đoạn 7—tôi biết các ý kiến được hoan nghinh, nhưng tôi sẽ không dạy điều gì đó trừ phi Đức Thánh Linh chỉ ra cho tôi ý nghĩa. Họ hỏi: “Vậy còn 144.000 người? Đức Chúa Trời làm sao biết người Do Thái hiện đại thuộc về chi phái nào? Bạn có nghĩ rằng họ là người Do Thái theo nghĩa đen không?”

Rõ ràng việc đóng ấn của 144.000 người Do Thái lập lại câu chuyện về Tiên Tri Ê- xê-chi-ên đi vào trong thành và ghi dấu sự xức dầu của Chúa trước khi sự phán xét hầu đến (Êxê. 9:4-8).


2. 144.000 Người

“Tôi lại nghe số người được đóng ấn là: Mười bốn vạn bốn ngàn người được đóng ấn từ trong các chi phái dân Y-sơ-ra-ên; Trong chi phái Giu-đa, một vạn hai ngàn người được đóng ấn; Trong chi phái Ru-bên, một vạn hai ngàn; Trong chi phái Gát, một vạn hai ngàn; Trong chi phái A-se, một vạn hai ngàn; Trong chi phái Nép-ta-li, một vạn hai ngàn; Trong chi phái Ma-na-se, một vạn hai ngàn; Trong chi phái Si-mê-ôn, một vạn hai ngàn; Trong chi phái Lê-vi, một vạn hai ngàn; Trong chi phái Y-sa-ca, một vạn hai ngàn; Trong chi phái Sa-bu-lôn, một vạn hai ngàn; Trong chi phái Giô-sép, một vạn hai ngàn; Trong chi phái Bên-gia-min, một vạn hai ngàn đều được đóng ấn” (Khải 7:4-8)

Giờ đây chúng ta hãy xem Khải Huyền 14:1-3.

“Tôi nhìn xem, thấy Chiên Con đứng trên núi Si-ôn, và với Ngài có mười bốn vạn bốn ngàn người đều có Danh Chiên Con và Danh Cha Chiên Con ghi trên trán mình. Tôi nghe một tiếng trước trên trời xuống, y như tiếng nhiều nước, và như tiếng sấm lớn; tiếng mà tôi nghe đó như tiếng đờn cầm mà người đánh đờn gảy vậy: Chúng hát một bài ca mới trước ngôi, trước bốn con sanh vật và các trưởng lão. Không ai học được bài ca đó, họa chăng chỉ có mười bốn vạn bốn ngàn người đã được chuộc khỏi đất mà thôi.”

Tôi sẽ không cố tìm hiểu mọi chi tiết nơi đây bởi vì tôi không biết. Tôi có thể thuật lại những điều người khác nói, nhưng tôi sẽ phải xác định việc nầy: Bước đầu tiên hướng đến việc suy tính không phải Khải Huyền đoạn 7, cũng không Khải Huyền đoạn 14, mà là lời tiên tri cuối cùng của Gia-cốp trong Sáng Thế Ký đoạn 49. Ngay cả chúng ta không thể tích cực, và có lý do hợp lý để tin rằng hai nhóm của 144.000 người nầy thậm chí

chẳng giống nhau. Một nhóm dường như ở trên trời, nhóm kia dường như ở dưới đất. Việc mô tả nhóm nầy cũng không giống nhóm kia. Một nhóm dường như là dân Do Thái về thể chất, còn nhóm kia không cần thiết phải như vậy.

  1. Vấn Đề Về Nhân Dạng

    Ai hiểu biết về nhân chủng học (anthropology)? Arnold Fruchtenbaum thì đúng:* Điều chính yếu là dấu giao ước trong việc ban cho nhân dạng người Do Thái. Dân Do Thái đã kết hôn (intermarried: hôn nhân khác chủng tộc, họ hàng gần, cùng nhóm) trải nhiều thế kỷ. Toàn bộ Đế Quốc Khazar cải sang Do Thái giáo.** Arthur Koestler*** và những người khác đồng ý dân Do Thái Ashkenazi đến từ Khazar cải đạo sang Do Thái giáo. Một số người rất lớn cải sang Do Thái giáo ở Morocco. Toàn bộ Đế Quốc Yemenite cải đạo. Cách mà Constantine lấy cớ để cải đạo sang Cơ Đốc giáo thì xảy ra tương tự ở thế giới người Do Thái. Về phương diện nhân chủng học, chúng ta sẽ bị sức ép rất lớn để ủng hộ. Nhân dạng người Do Thái phải thực hiện với giao ước.

    *Arnold Arnold Fruchtenbaum sinh 26.9.1943 tại Siberia, Russia, là người sáng lập và giám đốc mục vụ Ariel Ministries, tổ chức ưu tiên truyền giáo cho người Do Thái để họ tin Chúa Jesus chính là Đấng Mê- si Do Thái. ND.

    **Khazar là bộ lạc bán du mục người Turk. Trong vòng ba thế kỷ khoảng năm 650 đến 965, Đế Quốc Khazar thống trị khu vực rộng lớn kéo dài từ thảo nguyên sông Volga-Don đến phía Đông bán đảo Crimea và Bắc Kavkaz. ND.

    ***Arthur Koestler (05.9.1905-01.3.1983) người Hunggary-Anh gốc Do Thái, là tác giả, nhà báo nổi tiếng ở Âu Châu (Giải Sonning 1968 và CBE 1972). ND.

    Vâng, có vấn đề về các con trai của Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp, nhưng xác định “các con trai” như thế nào? Một số con trai đó của mười hai chi phái được các tôi tớ sanh ra. Chúng ta ngay cả không thể trực tiếp truy nguyên dòng dõi di truyền theo chiều hướng ấy. Nó phải thực hiện với giao ước.

    Làm sao chúng ta xác định được một người thuộc chi phái nào? Họ (family name) của vợ tôi là “Segal.” Đây là gia đình trợ tế ở chi phái Lê-vi. Người có tên như “Levine” hay “Cohen” thì chúng ta có thể suy đoán trở lại các gia đình tế lễ đó, nhưng ai biết được? Tôi không biết, và tôi rất hoài nghi kẻ nào nói rằng họ đã luận ra tất cả. Những gì tôi biết là tìm hiểu ra nó không bắt đầu với Khải Huyền, mà với Gia-cốp.

    Chúng ta đã xem điều Gia-cốp muốn cách cá nhân, giờ đây chúng ta sẽ nhìn vào điều ông dành cho Israel và dân Do Thái là một quốc gia.

    Gia-cốp một lần nữa là kẻ luôn tìm cách đạt được phước hạnh và mục đích Chúa theo lý lẽ và khả năng thiên nhiên của mình. Dân Do Thái đã làm gì? Họ cố đạt được phước hạnh và mục đích Chúa theo ý tưởng thiên nhiên của mình. Do Thái giáo theo kinh Talmud được thành lập ở Yavneh bởi Ra-bi Johanan ben Zakkai không phải Do Thái giáo theo kinh Torah, mà là Do Thái giáo khác. Đó là sản phẩm từ ý tưởng thiên nhiên của các ra-bi, phát triển ở các thế kỷ sau đó bởi các ra-bi như Akiva và giáo sĩ khác, cuối cùng được Rambam đánh giá lại như tôn giáo kiểu Aristotelian, và thậm chí còn hơn thế nữa.

    Người Do Thái biết mình khác các dân tộc còn lại, song họ không biết tại sao. Thật kinh ngạc khi Alan Ginsberg,* thi sĩ Do Thái từ phong trào Beatnuk ở Mỹ (tôi thường thấy ông quanh New York), nói với chúng ta rằng ông theo Phật giáo. Những người Do Thái không tin Chúa, họ đi đến Bức Tường Than Khóc (Wailing Wall)** ở Jerusalem, và bắt đầu khóc ngay cả cho dù họ không tại sao. Họ biết điều nào đó song không phân biệt nó là gì, và thậm chí họ còn không nhận ra tại sao mình biết. Hãy nghĩ về người Do Thái chưa được cứu như loại người tái phạm tội (backslider). Giao ước mới trong Giê-rê-mi 31:31 không được thực hiện với Hội Thánh, mà cho nhà Giu-đa và nhà Y-sơ-ra-ên. Họ đã phá vỡ giao ước đó. Dân Do Thái đã tái phạm tội.

    *Allen Ginsberg (03.6.1926-05.4.1997) là thi sĩ Mỹ gốc Do Thái, một trong các thủ lãnh của Beatnik era (gồm cả Beat Generation), phong trào thịnh hành từ thập niên 1950 đến giữa thập niên 1960 nhằm phô bày các khía cạnh hời hợt của văn học thập niên 1950. ND.

    **Wailing Wall, hay Western Wall, hoặc Ha-Kotel Ha-Ma'aravi (Do Thái) - al-Buraaq (Ả Rập) phần còn sót lại của tường chắn Herodian. Bức tường cao 19m, là địa điểm linh thiêng của dân Do Thái. ND.

    Khi ai đó được tái sanh, rồi họ rời khỏi Chúa Jesus, và trở lại thế gian, cuộc đời họ có thể không bao giờ còn bình thường hoặc như trước nữa. Họ không còn phù hợp bởi họ biết điều nào đó là sai, nó ăn mòn linh hồn họ mọi lúc, nhưng họ nhận ra đó là gì. Người Do Thái biết có điều đang ăn mòn linh hồn họ, song không biết là gì. Các ra-bi ngỡ rằng mình biết, nhưng họ lại chẳng đồng ý với nhau về điều đó. Tôi từng nói chuyện nhiều giờ bằng tiếng Hê-bơ-rơ với vị hội trưởng các ra-bi Do Thái giáo Chính Thống ở thành phố Leeds, và làm chứng cho ông. Ông là người tuyệt vời với kiến thức phong phú, song lại rất kém hiểu biết.

    Gia-cốp luôn dùng mưu để cố đạt được mục đích, phước hạnh, gia tài bằng quỷ kế của mình, và vẻ mặt ông luôn kiêu căng. Người Do Thái cũng vậy. Bất kể thứ gì người Do Thái cố gắng, vẻ mặt họ sẽ vênh váo.

  2. Trở Về Đất Hứa

Chỉ có một nơi người Do Thái sẽ được an toàn, và đó không phải là đất Israel. Dân Do Thái không bao giờ an toàn trong đất Israel; đó là nơi dễ bị tổn thương về mặt chiến lược. Chắc chắn những thảm họa Do Thái lớn nhất trước Holocaust (Đức Quốc Xã giết chết hàng triệu dân Do Thái), là sự kiện năm 70 AD, và cuộc nổi dậy của Bar Kochba thế kỷ thứ hai,* tương đương với Holocaust. Đó là loại tương xứng với hủy diệt hàng loạt, thế nhưng lại xảy ra ở đất nước họ. Nơi duy nhất người Do Thái sẽ được an toàn là trong lòng bàn tay của Đấng Mê-si họ, Yeshua (Chúa Jesus).

*Sự kiện năm 70 AD là việc phá hủy Đền Thờ Jerusalem. Cuộc nổi dậy Bar Kochba (132-136) do Ra-bi Simon Bar Kochba lãnh đạo bắt đầu năm 132 chống lại Đế Quốc La Mã. Cuối cùng Bar Kochba bị giết trong trận chiến năm 135. Theo Dio Cassius, ít nhất nửa triệu người Do Thái bị giết chết. ND.

Rất nhiều tổ chức tuyên bố rằng dân Do Thái có thể được phước hạnh bằng việc mang họ trở lại Israel. Người Do Thái sẽ không về Israel vì phước hạnh của Chúa. Chỉ có cách duy nhất Đức Chúa Trời có thể ban phước cho dân Do Thái, tương tự như cách Ngài ban phước cho bất kỳ ai: Qua đức tin vào Đấng Mê-si. Bởi trước hết Phúc Âm sẵn sàng

dành cho họ, hậu quả vì việc từ chối cũng giáng trên họ đầu tiên (Rôm. 9-11). Giê-rê-mi 30 nói về “kỳ tai hại của Gia-cốp” (Giê. 30:7). Dân Do Thái trở về Israel vì “kỳ tai hại của Gia-cốp.”

Ẩn dụ hoặc hình ảnh về ban đêm trong Thánh Kinh là ẩn dụ về Cơn Đại Khổ Nạn. Chúa Jesus nói Ngài sẽ đến như kẻ trộm (Khải 3:3; 16:15). “Hỡi người canh, đêm thể nào? Hỡi người canh, đêm thể nào?” (Ês. 21:11). “Hoặc canh hai, canh ba, chủ trở về, nếu thấy đầy tớ như vậy thì phước cho họ?” (Lu. 12:38). “Trong khi còn ban ngày, Ta phải làm trọn những việc của Ðấng đã sai Ta đến; tối lại, thì không ai làm việc được” (Gi. 9:4). Những nữ đồng trinh khôn ngoan có dầu trong đèn mình để soi sáng ban đêm (Mat. 25:1-13). Gia-cốp nhận lấy phước hạnh lúc nào? Vào cuối đêm, lúc đã rạng đông (Sáng 32:24-32). Người Do Thái đã vật lộn với Đức Chúa Trời, và họ sẽ tiếp tục vật lộn cho đến khi kết thúc đêm trường.

5. “Gia-cốp” Đấu Với “Y-sơ-ra-ên”

Thánh Kinh cho biết sự khác nhau giữa “Y-sơ-ra-ên” và “Gia-cốp.” Suốt Kinh Thánh chúng ta thấy tên “Israel” và “Gia-cốp” được sử dụng vào các thời điểm khác nhau. Tại sao Đức Chúa Trời gọi họ bằng cả hai tên? “Israel” đã bị tan vỡ. Ga-la-ti nói về Israel của Đức Chúa Trời—ngay cả Dân Ngoại cũng được ghép vào Israel bởi đức tin ở một số ý nghĩa, nhưng “Gia-cốp” là dân Do Thái ở tình trạng chưa tan vỡ—tên họ chưa được thay đổi. Phước hạnh dành cho “Israel,” lời hứa thì cho “Gia-cốp.”

Đức Chúa Trời không thể phá vỡ lời hứa Ngài với dân Do Thái, nhưng họ sẽ không bao giờ nhận lời hứa đó trong lúc họ còn được gọi là “Gia-cốp,” họ sẽ chỉ có khi được gọi là “Israel.” Khi Đức Chúa Trời nhìn dân Do Thái, Ngài thấy gì? “Israel ư?” Không, Chúa thấy “Gia-cốp.” Khi Đức Chúa Trời nhìn vào tín nhân Do Thái, Ngài thấy “Israel.”

“Gia-cốp” được nhân cách hóa và tiêu biểu cho dân Do Thái. Theo ý nghĩa nào đó toàn bộ cuộc đời lâu dài của ông là để chuẩn bị cho yếu tố nầy. Không phải Áp-ra-ham bắt đầu Israel, không phải Y-sác bắt đầu Israel, mà là Gia-cốp—mười hai chi phái đến từ ông. Gia-cốp đưa ra lời tiên tri ở Sáng Thế Ký 49 cho dân Do Thái mà việc phê chuẩn bao gồm cả toàn bộ lịch sử và chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời cho mọi người, đặc biệt là dân Do Thái, mở rộng ra tất cả đường đến Khải Huyền. Khi chúng ta đọc Kinh Thánh về lịch sử các chi phái Israel, họ đã làm gì, những gì xảy ra với họ, họ kinh nghiệm được gì, tất cả đều kết thúc với điều Gia-cốp tiên đoán. Toàn bộ cuộc đời ông là sự chuẩn bị cho những gì ông sẽ làm vào lúc cuối rốt, và toàn bộ lịch sử Israel là sự chuẩn bị cho những gì họ sẽ làm vào lúc sau cùng. Toàn bộ cuộc đời ông là sự chuẩn bị cho lời tiên tri nầy. Mọi việc là chuẩn bị cho sự kiện tột đỉnh nầy. Có lẽ ông đã mất nhiều phút. Hãy tưởng tượng Đức Chúa Trời chuẩn bị cho ai đó mười phút mục vụ? Nhưng mười phút mục vụ đó xoay quanh tương lai toàn bộ lịch sử tiên tri.

Đối với dân Do Thái cũng sẽ tương tự như vậy. Lời hứa thì cho “Gia-cốp,” phước hạnh dành cho “Israel.” Ngay chính vào lúc cuối cùng tất cả sẽ tạo nên ý nghĩa cho Hội Thánh và dân Do Thái, rồi họ sẽ biết tại sao. Cơ Đốc nhân đầu tiên là người Do Thái, và

bất kể những gì chúng ta nghe, Cơ Đốc nhân cuối cùng cũng sẽ là người Do Thái. Đức Chúa Trời sẽ ban phước cho Hội Thánh qua người Do Thái trước khi Ngài đến; mọi sự chuẩn bị cho thế giới vì điều đó. Đây là khuôn khổ để nhìn xem Khải Huyền đoạn 7.

  1. Lời Tiên Tri Của Gia-cốp

    “Gia-cốp gọi các con trai mình lại và nói rằng: Hãy hội lại đây, cha sẽ nói những điều phải xảy đến cho các con ngày sau.”

    “Hỡi các con trai Gia-cốp, hãy hội lại mà nghe; nghe lời Y-sơ-ra-ên, cha của các con. Hỡi Ru-bên! Con là trưởng nam của cha, sức lực cha, và đầu tiên sự mạnh mẽ cha; vốn có sự tôn trọng và quyền năng tót chúng. Con sôi trào như nước, nên sẽ chẳng phần hơn ai…”

    (Người đầu sẽ là rốt, kẻ rốt sẽ trở nên đầu).

    “Vì con đã lên giường cha. Con lên giường cha bèn làm ô làm dơ đó.”

    (Tội lỗi của cha đã truyền lại cho con trai, chỉ thập tự giá mới có thể phá vỡ nó).

    “Si-mê-ôn và Lê-vi là anh em ruột. Thanh gươm chúng nó thật khí giới hung tàn.”

    (Đây là bởi những gì họ đã làm khi giết những người đó, ngay cả dù cơn giận của họ có lý do đúng).

    “Cầu cho tâm hồn cha chớ có đồng mưu, vinh hiển cha chớ hiệp cùng hội họ; vì họ đã giết người trong cơn giận dữ, cắt nhượng bò đực vì ý riêng mình.”

    (Nếu họ là những người đơn thuần bị tác động bởi cơn phẫn nộ chính đáng thì đó là một việc, nhưng khi ai đó với tính khí tồi tệ chỉ tìm cớ để làm thì lại là việc khác. Họ chỉ tìm cớ họ cần để tiếp tục con đường chiến tranh. Những anh hùng chiến tranh vĩ đại lại là người yêu thích hòa bình).

    “Ðáng rủa sả thay cơn giận dữ họ, vì thật là hung mạnh! Ðáng rủa sả thay khí giận họ, vì dữ dằn thay! Ta sẽ phân chia họ ra trong nhà Gia-cốp, tan lạc họ trong dân Israel.”

    (Và một lần nữa lịch sử các chi phái lại diễn ra).

    “Hỡi Giu-đa! các anh em sẽ khen ngợi con, tay con chận cổ quân nghịch, các con trai cha sẽ quỳ lạy trước mặt con. Giu-đa là một sư tử tơ; hỡi con! Con bắt được mồi rồi tha về. Nó sụm gối, nằm khác nào sư tử đực, như sư tử cái; há ai dám khiến ngồi lên?”

    (Nơi đây nói về sư tử của Giu-đa).

    “Cây phủ việt chẳng hề dời khỏi Giu-đa, kẻ lập pháp không dứt khỏi giữa chân nó, cho đến chừng Ðấng Si-lô hiện tới, và các dân vâng phục Ðấng đó. Người buộc lừa tơ mình vào gốc nho, lừa con mình vào nhành nho tốt nhất. Người giặt áo xống mình vào rượu nho, cùng lấy huyết nho lau áo tơi mình. Mắt người đỏ vì cớ rượu, răng nhiều trắng vì cớ sữa.”

    “Sa-bu-lôn sẽ ở nơi gành biển, tức là nơi có tàu đậu,”

    (Đó là đất họ nhận được khi Giô-suê chiếm lấy đất hứa).

    “...bờ cõi người chạy về hướng Si-đôn. Y-sa-ca là một con lừa mạnh mẽ, nằm nghỉ giữa chuồng; thấy rằng sự yên ổn là tốt lành, và đất đai đẹp lắm thay. Người đã rùn vai vác gánh nặng, phải vâng phục những điều sưu dịch.”

    “Ðan sẽ xử đoán dân chúng mình, như một trong các chi phái Y-sơ-ra-ên. Ðan sẽ là một con rắn trên đường, một con rắn lục trong chốn nẻo cùng, cắn vó ngựa, làm cho kẻ cỡi phải té nhào. Hỡi Giê-hô-va! tôi trông ơn chửng cứu của Ngài.”

    (Tất cả đều chỉ về Chúa Jesus).

    “Y-sa-ca là một con lừa mạnh mẽ.”

    “Còn Gát sẽ bị một đạo binh xông đánh, nhưng người xông đánh lại và đuổi theo.” “Do nơi A-se có thực vật ngon, người sẽ cung cấp mỹ vị cho các vua.”

    “Nép-ta-li là nai cái thả chuồng, nói bày nhiều lời văn hoa.”

    “Giô-sép là chồi của cây tươi tốt, mọc gần bên suối nước; nhành nhánh phủ bao trên ngọn tường. Kẻ cầm cung đã ghẹo chọc người, bắn tên vào, và hãm đánh; nhờ tay Ðấng Toàn Năng của Gia-cốp, nên cung người vẫn bền chắc.”

    “Nhờ Ðấng Chăn Chiên, là Ðá của Y-sơ-ra-ên, nên hai tay người thêm mạnh. Ðức Chúa Trời của cha sẽ giúp đỡ con; Ðấng Toàn Năng sẽ ban phước cho con, tức là phước lành ở chốn trời cao xuống, cùng phước lành ở nơi vực rộng thẳm lên, phước lành của vú, và của lòng mẹ. Phước lành cha chúc cho con vượt lần lên cao hơn các phước lành của tổ phụ cha, cho đến các chót núi đời đời: Các phước nầy sẽ ở nơi đầu Giô-sép,”

    (Ông là điển hình của Đấng Mê-si). “nơi trán của chúa các anh em mình.” (Một lần nữa ông tiêu biểu cho Chúa).

    “Bên-gia-min là một con chó sói hay cấu xé; ban mai đi đánh chết mồi, chiều phân chia mồi đã được.”

    (Hội Thánh đầu tiên bằng cách nào đó thấy đây là lời tiên tri về Phao-lô, rằng buổi sáng ông là con sói đói nuốt mồi, như cách đầu tiên ông bắt bớ Hội Thánh, song sau cùng ông phân chia mồi đã được bằng việc mang phước hạnh và lương thực cho con dân Chúa sau khi ông tin nhận Ngài).

    “Các người đó là đầu trưởng của mười hai chi phái Y-sơ-ra-ên; và đó là lời của cha họ nói đang khi chúc phước cho, chúc một lời phước riêng cho mỗi người vậy. ”

    (Họ diễn lại lịch sử về những gì ông nói).

    “Ðoạn, người ra lịnh cho các con trai mà rằng: Cha sẽ về nơi tổ tông, các con hãy chôn cha chung cùng tổ phụ, nơi hang đá tại đồng ruộng Ép-rôn, người Hê-tít, tức là hang đá ở trong đồng Mặc-bê-la, ngang Mam-rê, thuộc về xứ Ca-na-an, mà Áp-ra-ham đã mua làm mộ địa luôn với đồng ruộng của Ép-rôn. Ấy nơi đó, người ta đã chôn Áp-ra- ham và Sa-ra, vợ người; Y-sác và Rê-be-ca, vợ người; mà lại nơi đó cha cũng đã chôn

    Lê-a nữa. Cái đồng ruộng cùng hang đá ở tại đó đã mua của dân họ Hếch vậy. Khi trối mấy lời nầy cho các con mình xong, thì Gia-cốp để chân vào giường lại, rồi tắt hơi, được về cùng tổ tông mình” (Sáng 49:1-33).

    Đúng ngay chính vào lúc cuối đời khi ông đặt tất cả lại cùng nhau. Mọi sự ông trải nghiệm thành công ngay vào lúc cuối cùng. Với dân Do Thái cũng sẽ là như vậy. Thảm sát Holocaust, tòa án dị giáo, Cựu Ước, Tân Ước, Hội Thánh đầu tiên; Sáng đoạn 49 sẽ có ứng nghiệm cuối cùng theo cách nào đó trong Khải Huyền đoạn 7 và 14. Chính vào lúc cuối cùng tất cả sẽ đến cùng nhau, nhưng chì đến khi mọi lời tiên tri trong Sáng Thế Ký đoạn 49 được hoàn thành.

  2. Sự Quan Trọng Của Giu-đa

    Lời tiên tri quan trọng nhất là Giu-đa. Ngoại trừ tình huống với Ta-ma (Sáng 38), Giu-đa luôn độc đáo và tốt lành. Giu-đa hướng dẫn các chi phái qua đồng vắng trong hình thể quanh Hòm Giao Ước. Đó là Giu-đa đã cầu xin các anh em thương xót Giô-sép, cùng cách mà Chúa Jesus kêu gọi thương xót người Do Thái (Sáng 37:26). “Hết thảy dân chúng đều đáp rằng: Xin huyết người lại đổ trên chúng tôi và con cái chúng tôi!” (Mat. 27:25), và Chúa Jesus phán: “Lạy Cha, xin tha cho họ” (Lu. 23:34).

    “Cây phủ việt chẳng hề dời khỏi Giu-đa, kẻ lập pháp không dứt khỏi giữa chân nó, cho đến chừng Ðấng Si-lô hiện tới” (Sáng 49:10a).

    Hết lần nầy đến lần khác văn học Talmud nói với chúng ta “Đấng Si-lô” là Đấng Mê-si; Do Thái giáo hiểu theo cách đó.

    “Ðức Giê-hô-va phán như vầy: Hãy ghi người nầy trong những kẻ không có con cái, trong những kẻ cả đời không thạnh vượng; vì con cháu nó sẽ không một người nào thạnh vượng, ngồi ngai Ða-vít và cai trị trong Giu-đa nữa” (Giê. 22:30)

    Vua Đa-vít từ chi phái nào? Giu-đa.

    Trong Sa-mu-ên, Đa-vít được hứa ông sẽ không bao giờ thiếu người ngồi trên ngôi Đa-vít (II Sam. 7:16). Do Thái giáo có vấn đề lớn giải thích thể nào Đức Chúa Trời giữ lời hứa nầy ngày nay. Thuyết Do Thái Anh (Anglo-Israelism) hiện cố gắng nói rằng ngôi Đa-vít là chính thể quân chủ và Hoàng Gia Anh Quốc (Great Britain). Điều nầy đến khi có thủ tướng người Do Thái, và sẽ xảy ra trong thế kỷ vừa qua. Luôn có một số loại dòng dõi Đa-vít, ngay cả lúc bị gián đoạn trong Thời Kỳ Lưu Đày (Captivity). Người vương quốc Hasmoneus, là hậu duệ của Mác-ca-bê đã cố lập thầy Tế Lễ Thượng Phẩm là vua. Nhưng vua cần phải là hậu duệ của Đa-vít, và thầy tế lễ cần phải là hậu duệ A-rôn. Bởi bất kỳ đòi hỏi nào người cuối cùng có thể là hậu duệ Đa-vít phải kết thúc ở triều đại Hê- rốt Đại Đế. Mẹ của Hê-rốt là người Mô-áp, còn ông thuộc loại cải đạo sang Do Thái giáo, nhưng về phương diện văn hóa, ông cơ bản là người Rô-ma hơn là Do Thái.

    “Cây phủ việt chẳng hề dời khỏi Giu-đa… cho đến chừng Ðấng Si-lô hiện tới.” Vâng, cây phủ việt chẳng hề dời khỏi Giu-đa—Đấng Si-lô phải đến. Đấng Mê-si phải đến trước khi kết thúc dòng dõi Đa-vít.

    Đức Chúa Trời hứa với Đa-vít Ngài sẽ luôn ban cho hậu duệ trên ngôi. Phải chăng có một hậu duệ? Không, trừ phi trên thiên đàng Chúa Jesus ngự trên ngôi Đa-vít như Tân Ước cho biết (Hêb. 8:12; 12:2). Hoặc là Đấng Si-lô—Đấng Mê-si—về thuộc linh đã đến và ngự trên ngôi Đa-vít (và Ngài sẽ tể trị lần nữa trong Thiên Hy Niên), hay Kinh Thánh thì sai và Đức Chúa Trời phá vỡ lời hứa của Ngài. Đây là một trong những khúc Kinh Thánh mà văn học Talmud và luận giải của các ra-bi cần đi bước rất dài để vượt qua. Họ mắc phải vấn đề lớn, song chúng ta biết có Sư Tử Giu-đa, Ngài hiện ngự trên ngôi Đa-vít, nhà Đa-vít sẽ được phục hồi ở Jerusalem, và Chúa Jesus sẽ tể trị nơi đó.

  3. Các Chi Phái

    Trong Sáng Thế Ký 49:3-4, Ru-bên là con đầu lòng của Lê-a, song lại nhận ưu tiên cuối cùng; nơi ân huệ dành cho Giô-sép, đặc quyền tế lễ thuộc Lê-vi, vương vị về tay Giu-đa. Ru-bên thì “bất trị, như nước không thể kiểm soát được” chẳng còn nghi ngờ gì nữa Ru-bên phạm tội với Bi-la, vợ lẽ cha mình (Sáng 35:22). Đây chính xác là những gì đã xảy ra. Trưởng nam không nhận được vương vị, ân huệ, hay dòng dõi tế lễ. “Song có nhiều kẻ ở đầu sẽ nên rốt” (Mat. 19:30).

    Si-mê-ôn và Lê-vi là con trai thứ nhì và thứ ba của Lê-a. Họ giết hết thảy người nam ăn năn, chịu phép cắt bì gần Si-chem (Sáng 34), vì vậy họ không có của thừa kế. Dòng Lê-vi không được cho gì hết, và người Si-mê-ôn bị chi phái Giu-đa nuốt chửng: “Ta sẽ phân chia họ ra trong nhà Gia-cốp, tan lạc họ trong dân Y-sơ-ra-ên” (Sáng 49:7). Đó là những gì đã xảy ra trong lịch sử. Đó là lời tiên tri theo nghĩa đen thật sự hoàn thành như dự đoán. Vấn đề là họ giết hết thảy người nam ăn năn, chịu phép cắt bì. Khi chúng ta thấy những Cơ Đốc nhân vẫn giữ mãi hận thù, không chịu tha thứ cho người thật sự ăn năn, việc đó sẽ làm tổn thương họ còn hơn cả người họ không tha thứ.

    Giu-đa là con trai thứ tư của Lê-a. Giu-đa nhận được lời khen ngợi và “Yehuda” (Yehuda là tên khác của Giu-đa) phải làm với lời khen ngợi đó. Ông có quyền trưởng nam và phẩm cách xuất chúng, nắm giữ vương quyền cùng dòng dõi Đa-vít trước lúc cây phủ việt (vương trượng) dời đi, khi Đấng Si-lô đến (tham khảo trong Ê-xê-chi-ên 21:27).

    Rồi có Sa-bu-lôn, con trai thứ năm của Lê-a, người “sẽ ở nơi gành biển, tức là nơi có tàu đậu” (Sáng 49:13). Gia-cốp đề cập đến dân Si-đôn, ở Quan Xét đoạn 5 chúng ta thấy điều nầy ứng nghiệm sau đó ở Bài Ca Đê-bô-ra trong chiến trận đánh với Si-sê-ra.

    Y-sa-ca là con trai thứ sáu của Lê-a và ông là “chamor”—con lừa: “một con lừa mạnh mẽ” (Sáng 49:14). Ông mạnh mẽ và bướng bỉnh, nhưng chịu mang ách: “Người đã rùn vai vác gánh nặng, phải vâng phục những điều sưu dịch” (Sáng 49:15). Bởi vì quá lười biếng, ông quy phục kẻ xâm lược Ca-na-an hơn là chiến đấu; đó là Y-sa-ca.

    Có Đan, con trai đầu của Bi-la, con rắn độc gây điều khủng khiếp (Sáng 49:16-18).

    Lại có Gát, con trai đầu của Xinh-ba, con đòi của Lê-a. Nòi giống Do Thái không chỉ là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp qua vợ họ là Lê-a và Ra-chên. Ý tưởng về việc có cuộc hôn nhân Levirate, hoặc mẹ thay thế. Đức Chúa Trời không đơn giản quan tâm đến

    nòi giống về thể chất; Ngài chú trọng đến đức tin đối với tất cả hậu duệ Áp-ra-ham. Gát là đạo binh hay đoàn quân, một lực lượng quân sự hùng mạnh tin cậy Chúa.*

    *Hôn nhân Levirate (Levirate marriage) là phong tục của dân Do Thái cổ, rằng một người có thể phải lấy vợ góa của anh em trai mình, nếu những người nầy chết mà chưa có con trai nối dõi. Mẹ thay thế (surrogate motherhood) là người phụ nữ sanh con thay cho người khác không có khả năng sinh sản. ND.

    A-se là con trai thứ hai của Xinh-ba, liên quan đến lúa mì, rượu vang và dầu.

    Nép-ta-li là con trai thứ hai của Bi-la “nói bày nhiều lời văn hoa” hay “tin kính” (Sáng 49:21), như chúng ta thấy ở Quan 5:18 trong tính cách của những người “chẳng tiếc sự sống mình cho đến chết” (Khải 12:11).

    Rồi có Giô-sép, con trai đầu lòng của Ra-chên, người là “chồi của cây tươi tốt” (Sáng 49:22), như “Ép-ra-im” có nghĩa “hưng vượng bằng hai,” “Giô-sép” nghĩa là “Đức Chúa Trời sẽ rửa hay thêm.” Người có những tính cách của Chúa Jesus, đó là suối nguồn sự sống. Trong câu 22 Người là Nước Hằng Sống; ở câu 23 Lời Người giống như những mũi tên, đến câu 24 Người là Đấng Chăn Chiên; vào câu 25 Người được giúp đỡ bởi Cha mình—“El Shaddai (Đấng Toàn Năng)” và các việc khác liên quan đến Chúa Jesus xảy ra với ông. Những điều xảy ra với Giô-sép được phô bày ra trong Chúa Jesus.

    Một lần nữa, Hội Thánh đầu tiên chứng kiến Bên-gia-min được ứng nghiệm trong Phao-lô (Sáng 49:27). Ru-bên, Gát và nửa chi phái Ma-na-se, như được ám chỉ đã không vượt qua sông Giô-đanh. Họ muốn phước hạnh của Đức Chúa Trời ở nơi đây. Các chi phái đã tồn tại ngay cả sau khi mười chi phái phía Bắc bị bắt làm phu tù.

  4. Ứng Dụng Những Đặc Điểm Của Các Chi Phái

    Tín nhân có đặc điểm của mười hai chi phái đó. Một số tín nhân có các tính cách của Giô-sép. Một số người giống Chúa Jesus rất nhiều, và họ là mẫu mực cho số còn lại chúng ta. Khi chúng ta thấy những Cơ Đốc nhân giống như vậy, các anh em họ không thích họ. Lý do tại sao những người trung tín lại không được ưa thích ở Hội Thánh là bởi vì họ bị xem như kẻ yếu đuối, nhút nhát (wimps), điều mà họ không có, như khi tôi thấy người nào đó giống Chúa Jesus hơn tôi, tôi cảm thấy mình có tội, mình bị kết án.

    Có những tín nhân giống như Bên-gia-min: Họ không bắt đầu tốt đẹp, nhưng họ kết thúc cách tuyệt vời.

    Có tín nhân giống người Ru-bên, dân Gát, và nửa chi phái Ma-na-se: Họ muốn đời sống tốt đẹp, tiện nghi nơi đây và bây giờ ở thế gian nầy; họ không muốn vượt qua sông Giô-đanh và đi đến chiến tranh, mà không nhận ra rằng dù thế nào đi nữa họ sẽ phải vượt qua sông Giô-đanh và đi đến chiến tranh, nhưng họ có thể sẽ mất đi phước hạnh nếu muốn đời sống dễ dàng. Có rất nhiều tín nhân muốn đời sống dễ dàng. Các con trai của Gia-cốp dạy điều gì đó về chúng ta. Gia-cốp biết con trai mình. Ông có thể tiên đoán chúng sẽ thích gì—không chỉ dân Do Thái, mà cả mười hai trưởng lão khác, cùng hậu duệ của mười hai Sứ Đồ trong Khải Huyền đoạn 4.

    Những gì xảy ra thật thú vị khi chúng ta đặt tên những con trai nầy bên cạnh nhau trong tiếng Hê-bơ-rơ. Đan bị đuổi ra bởi thờ phượng con bò vàng và xử đoán dân sự, chứ không thờ phượng Đức Chúa Trời, được bù đắp vào vì Giô-sép có hai con trai để tạo nên mười hai người tương tự.

    “Các ngươi đừng đoán xét ai, để mình khỏi bị đoán xét” (Mat. 7:1). “Giu-đa”—“kẻ xưng tội hay người ca ngợi Đức Chúa Trời.”

    “Ru-bên”—“nhìn vào con trai.” “Gát”—“đồng hành.”

    “A-se”—“được phước.”

    “Nép-ta-li”—“đấu tranh hoặc vật lộn với.” “Ma-na-se”—“lãng quên.”

    “Si-mê-ôn”—“lắng nghe hoặc vâng phục.” “Lê-vi”—“bám vào hay gia nhập.”

    “Y-sa-ca”—“phần thưởng.”

    “Sa-bu-lôn”—“nhà ở nơi phát triển.” “Giô-sép”—“sẽ được thêm vào.” “Bên-gia-min”—“con trai tay hữu.”

    Một trong các sự khác biệt giữa khoa chú giải Thánh Kinh Hy Lạp và Do Thái là khoa chú giải Thánh Kinh Hy Lạp có “điều nầy hoặc điều kia,” nhưng ở khoa chú giải Thánh Kinh Do Thái (không phải của ra-bi), có thể có cả hai. Bất kể họ là gì trong thuật ngữ về tổ chức hay nhân chủng học, Khải Huyền 14 mô tả tính cách và bản chất những người nầy: Nhóm người ca ngợi Đức Chúa Trời đang nhìn vào Con, Đấng được Ngài ban phước và đang đấu tranh với sự lãng quên. Dân Do Thái đã quên giao ước. Họ đang “lắng nghe và vâng phục” trong tính cách của Si-mê-ôn, đang bám vào phần thưởng được hứa về nhà ở đời đời sẽ được thêm vào cho họ bởi chính Tay Hữu của Con Đức Chúa Trời. Dù thế nào đi nữa Kinh Thánh cũng mô tả 144.000 người nầy. Các tên Hê-bơ-rơ cũng định rõ tính cách họ là một đơn vị hợp nhất.

  5. Kết Thúc Từ Lúc Ban Đầu

    Tất cả các loại sách sẽ cho bạn biết “điều nầy,” “điều nọ” và “việc kia,” tôi không nói với bạn bất kỳ điều gì ngoài những gì tôi đã nói nơi đây: Chìa khóa là ở Sáng Thế Ký đoạn 49. “Hãy đóng ấn sách nầy cho đến kỳ cuối cùng” (Đa. 12:4). Vào thời điểm thích hợp, Đức Thánh Linh sẽ chỉ ra chính xác điều nầy nghĩa là gì, nhưng cho đến giờ tôi biết những gì Ngài đang phán. Hãy nhìn vào Gia-cốp, hãy xem Sáng 49, hãy quên đi các chú giải Cơ Đốc, hãy trở lại với Sáng Thế Ký. Trong kinh Tanakh nói gì? “Ta (Đức Chúa Trời) đã rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên” (Ês. 46:10).

    Rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên, và đã nói từ thuở xưa những sự chưa làm nên.

    Hãy ghi nhận đó là “từ thuở xưa” Đức Chúa Trời công bố những sự chưa làm nên.

    Ngài rao sự cuối cùng từ buổi ban đầu.*

    *Tanakh (Tanach, Tenach) là bộ Kinh Thánh Hebrew gồm ba phần: Torah (Ngũ Kinh Môi-se), Neviim, nghĩa là Ngôn Sứ, và Ketuvim, nghĩa là Văn Chương. Tanakh còn gọi là Mikra, hay Miqra. ND.

    Hãy nghĩ về Kinh Thánh tựa ổ bánh mì chưa được cắt, hai đầu ổ bánh giống nhau, phải không? Sáng Thế Ký và Khải Huyền đi cùng nhau. Có mười hai con trai Gia-cốp, mười hai dấu trong Sáng đoạn 49 và chúng ta có gì trong Khải đoạn 6? Huyết của A-bên kêu gọi công lý. Huyết của những người tuận đạo kêu gọi sự xét đoán ở Khải 6:9-11. Có người phụ nữ trên trời trong khải tượng của Giô-sép ở Sáng Thế Ký và chúng ta có gì ở Khải đoạn 12? Chúa rao sự cuối cùng từ buổi ban đầu.

    Sự sáng tạo và tạo vật mới chiếu sáng, tương trợ cho nhau giữa Giăng và Sáng Thế Ký; sự sáng tạo và tái tạo (re-creation) trong Khải Huyền cũng vậy. Sáng Thế Ký là “Sự Sáng Tạo,” Giăng là “Tạo Vật Mới,” nhưng Khải Huyền là “Sự Tái Tạo.” Chìa khóa là ở Sáng Thế Ký. Toàn bộ Thánh Kinh thì ở trong Sáng Thế Ký. Toàn bộ lịch sử Do Thái và lịch sử Hội Thánh bị trói buộc trong Sáng Thế Ký đoạn 49 theo cách nào đó. “Ta đã rao sự cuối cùng từ buổi đầu tiên.” Tất cả đều tùy thuộc vào anh chàng Gia-cốp nầy.

  6. Tại Sao Lại Chọn Gia-cốp?

    Trong tất cả người vĩ đại ở thế gian, mọi người nam tuyệt vời của Kinh Thánh, tại sao Đức Chúa Trời lại chọn kẻ âm mưu, lừa đảo, mánh khóe, một tên “thông minh lanh lẹ,” và sắp đặt toàn bộ kế hoạch cứu rỗi cùng lịch sử của Ngài cho thế giới trên anh chàng nầy? Tại sao tất cả người tốt lành ở đất nước nầy, những kẻ sanh ra trong quốc gia nầy, người có thể đứng lên nơi đây thực hiện công việc tốt hơn tôi nhiều, mà Đức Chúa Trời lại nhặt lấy kẻ nghiện ma túy từ đường phố New York và mang đến Anh Quốc? Ai có thể trả lời cho các câu hỏi đó? Cách duy nhất mà thậm chí tôi có thể bắt đầu hiểu, đó là kẻ thua cuộc chẳng có gì để khoe khoang, ngoại trừ ân điển của Đức Chúa Trời.

    Dân Do Thái là một quốc gia, và là đất nước của những kẻ thua cuộc. Họ đã mất hết mọi sự, ngoại trừ một điều: Lời hứa của Đức Chúa Trời. Đó là điều họ không mất. Họ đã mất con trẻ, và họ đã mất đi niềm hy vọng mình. Hãy đến Israel. Chủ nghĩa Si-ôn là ước mơ của họ. Ngày nay họ nhận visa rời Israel đi Hoa Kỳ. Người Nga đến đó vì họ không thể nhận visa để đi Mỹ, hoặc Canada. Mọi sự dân Do Thái cố thử đều vô ích.

    Trung tâm văn hóa và khoa học thế kỷ 19 là Đức, nhưng ai ở trung tâm đó? Những người Do Thái Đức (German Jews). Dù tốt đẹp hơn hay tồi tệ hơn, Karl Marx là người Do Thái Đức, Sigmund Freud là người Do Thái Đức, khoa học gia Steinmetz là người Do Thái Đức. Họ nghĩ mình là những nhà tri thức và người đúc nặn đã tạo nên khoa học hiện đại. Mọi người theo sau tư tưởng họ, nhưng nó quay sang chống lại họ. Họ mất mọi sự. Hitler đến và thật sự nói: “Chỉ có hai loại chủng tộc thượng đẳng: Do Thái và Đức. Chúng ta tìm xem ai sẽ đi đến đỉnh.” Người Do Thái mất mọi thứ ở thảm họa Holocaust, vì vậy họ đến Israel, và giờ đây họ sẽ mất tất cả.

    Dân Do Thái đang mất đất, họ mất hy vọng, họ mất chủ nghĩa lý tưởng (idealism) mình. Kẻ chống Chúa Antichrist sẽ vào quốc gia đó và công bố hắn là Đấng Mê-si, người Do Thái sẽ bị lừa dối và phản bội bởi chính các ra-bi họ. Họ mất mọi sự ngoại trừ lời hứa của Đức Chúa Trời. Kế hoạch cứu chuộc của Chúa để cứu rỗi thế gian cùng tương lai Hội Thánh gắn liền với kế hoạch tiên tri và cứu chuộc để cứu rỗi quốc gia Israel.

    Tại sao Chúa lại chọn quốc gia như vậy, một quốc gia bé nhỏ? Họ có gì để mà khoe khoang? Có lẽ đó là lý do. Nơi đó quá bé nhỏ. Ngay cả ở thời Đa-vít và Sa-lô-môn họ chưa bao giờ là cường quốc vĩ đại, mà chỉ hùng mạnh ở khu vực. Họ không bao giờ có quyền lực thế giới vĩ đại như Rô-ma, hay Ba-by-lôn, hoặc Ba Tư. (Họ sẽ ở trong Thiên Hy Niên). Những nhà tri thức ư? Đó không phải người Do Thái mà là Hy Lạp, những nhà thông thái của thế giới cổ xưa. Họ chẳng có gì để so sánh với các quyền lực vĩ đại. Thế nhưng Đức Chúa Trời lấy những điều tầm thường, không đáng kể, và Ngài sử dụng.

    Những gì xảy ra với người Do Thái cũng sẽ xảy ra với chúng ta. Đầu và đuôi là Hội Thánh và Israel. Chúng ta có thể phân biệt giữa đầu và đuôi, nhưng chúng ta chẳng thể tách rời ra được.

    “Hỡi anh em, hãy suy xét rằng ở giữa anh em là kẻ đã được gọi, không có nhiều người khôn ngoan theo xác thịt, chẳng nhiều kẻ quyền thế, chẳng nhiều kẻ sang trọng” (I Côr. 1:26).

    Đức Chúa Trời không chọn dân Do Thái vì họ là đất nước vĩ đại nhất, Ngài chọn họ bởi họ là quốc gia yếu kém nhất. Chúa không chọn chúng ta vì chúng ta là người tuyệt vời nhất, Ngài chọn tôi bởi tôi là kẻ nghiện ma túy ở New York. Tôi chẳng có gì hết. Hầu hết bạn bè tôi đều chết vì thuốc kích thích.

  7. Mọi Sự Sẽ Được Hoàn Thành

Toàn bộ công việc Đức Chúa Trời trong cuộc đời Gia-cốp đều chỉ vào đoạn Kinh Thánh nầy, Sáng Thế Ký đoạn 49, rồi Ngài kết thúc. Sáng Thế Ký đoạn 49, Khải Huyền đoạn 7—nó sẽ phải xảy ra. Lời tiên tri đó sẽ được ứng nghiệm. Thời sẽ đến theo cách nào đó khi mục đích Chúa cho người Do Thái là ánh sáng cho muôn dân sẽ phải xảy ra.

Ben-Gurion nói,* người Do Thái phải là ánh sáng cho các nước, họ phải có kiểu mẫu chủ nghĩa xã hội trong kinh tế và chính phủ mình mà Dân Ngoại muốn bắt chước. Nhưng thời sẽ đến khi họ là ánh sáng cho các mước, khi họ có ánh sáng của Đấng Mê-si mình. Họ đã mất tất cả ngoại trừ lời hứa của Đức Chúa Trời. Nếu Chúa có thể phá vỡ lời hứa Ngài với Gia-cốp, hãy cho tôi lý do tốt để Ngài phải giữ lời hứa Ngài với Hội Thánh.

*David Ben-Gurion (16.10.1886-01.12.1973) là thủ tướng đầu tiên của Israel, sau khi lãnh đạo Israel chiến thắng trận Chiến Tranh Do Thái Ả Rập 1948. David Ben-Gurion được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 nhân vật quan trọng nhất thế kỷ 20. ND.

Trước khi Chúa Jesus tái lâm, các con trai Gia-cốp sẽ rao giảng Chúa Jesus cho muôn dân. Trước khi Chúa Jesus trở lại, Hội Thánh phải ở trong rắc rối rất nghiêm trọng. Đức Chúa Trời sẽ phục hưng Hội Thánh, nhưng chúng ta biết ai sẽ phục hưng?

“Vì nếu sự dứt bỏ họ ra đã làm sự hòa thuận cho thiên hạ, thì sự họ trở lại trong ân điển há chẳng phải là sự sống lại từ trong kẻ chết sao?” (Rôm. 11:15).

Cho ai? Cho Hội Thánh.

Tôi không biết nó diễn biến thế nào, nhưng tôi nói với bạn rằng Sáng Thế Ký đoạn 49 luôn được ứng nghiệm, và Sáng Thế Ký đoạn 49 sẽ phải được hoàn thành. Dân Do Thái đã mất mọi sự, nhưng họ không mất lời hứa của Đức Chúa Trời.

Chúa ban phước,

James Jacob Prasch.